(TG) - Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới.
Công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi
xướng vào năm 1986
trong bối cảnh đất nước gặp phải
những khó khăn gay gắt. Đổi
mới được bắt đầu từ thực tiễn, từ
những trăn trở, suy tư, từ những
hiện tượng “phá rào”, từ những
cách làm sáng tạo của các địa
phương, cơ sở; được Trung ương
Đảng chỉ đạo rút kinh nghiệm,
đi sâu tổng kết, đưa đến những
đổi mới nhận thức, tư duy, quan
điểm, trên cơ sở đó điều chỉnh,
đổi mới đường lối, chủ trương,
thể chế, chính sách phát triển
phù hợp thực tiễn khách quan,
tạo động lực cho quá trình xây
dựng đất nước. Qua hơn 30 năm
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã hình thành được một hệ
thống quan điểm lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa
học cho hoạch định đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước để đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới.
I. ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN,
ĐỒNG BỘ, CÓ TRỌNG TÂM,
TRỌNG ĐIỂM, NHẰM THỰC
HIỆN MỤC TIÊU “DÂN GIÀU,
NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ,
CÔNG BẰNG, VĂN MINH”
Đảng Cộng sản Việt Nam
kiên định mục tiêu đổi mới -
phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mục tiêu của
sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước, cũng là mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, được
nhận thức, hình thành trong
thực tiễn đổi mới, được bổ sung
và phát triển qua các kỳ Đại hội
Đảng, đến Đại hội XI năm 2011
đã khẳng định mục tiêu: Xây
dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Đổi mới chính
là hướng tới thực hiện ngày
càng tốt hơn, hiệu quả hơn và
ở trình độ cao hơn mục tiêu bao
trùm này. Tiêu chí để chỉ đạo
và đánh giá quá trình đổi mới
chính là thực tiễn và kết quả
đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng, ra khỏi tình trạng
kém phát triển, gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa,
xã hội, con người, nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân.
Để đổi mới thành công theo
mục tiêu trên, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định đổi mới
toàn diện đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong
từng giai đoạn; đặt đổi mới tư
duy lên hàng đầu để mở đường
và định hướng cho quá trình
đổi mới; trong đó đổi mới, phát
triển kinh tế là trung tâm và đi
trước một bước; xây dựng Đảng
là then chốt; xây dựng văn hóa,
con người làm nền tảng tinh
thần; tăng cường quốc phòng,
an ninh là trọng yếu, thường
xuyên; lấy sự ổn định chính trị -
xã hội làm tiền đề, làm điều kiện
tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới
và phát triển.
Từ mục tiêu của đổi mới, trải
qua thực tiễn, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định tám đặc
trưng cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân Việt
Nam xây dựng, đó là: 1) Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; 2) Do nhân dân
làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện;
6) Các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển; 7) Có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
8) Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên
thế giới. Những đặc trưng cơ
bản chính là những định hướng
quan trọng cho quá trình đổi
mới, được thể hiện và hiện thực
hóa trong tất cả các lĩnh vực
phát triển của đất nước và thể
hiện bản chất của quá trình đổi
mới và phát triển đất nước.
Với quan điểm “Phát triển
kinh tế là trung tâm”, Việt Nam
đặt trọng tâm là xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
đặt ra trước tiên là phải đổi mới
tư duy về thể chế và mô hình
phát triển kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá
trình thực hiện đường lối đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đi
đến nhận thức: “Sản xuất hàng
hoá không đối lập với chủ nghĩa
xã hội, mà là thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”(1).
Kinh tế thị trường không đồng
nghĩa với tư bản chủ nghĩa. Từ
đó đi đến khẳng định: “Mô hình
kinh tế tổng quát của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”(2). “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tạo
tiền đề vững chắc cho việc xây
dựng thành công và vận hành
đồng bộ, thông suốt nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; góp phần huy động
và phân bổ, sử dụng có hiệu
quả nhất mọi nguồn lực để thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển
nhanh và bền vững vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”(3). Đây là
bước đổi mới có tính lịch sử cả
về lý luận và thực tiễn, thể hiện
tập trung trong việc xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó xác định rõ và
giải quyết hiệu quả mối quan
hệ giữa nhà nước, thị trường và
xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp cho sự phát triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định phát triển con người, văn
hóa, xã hội là nhiệm vụ và mục
tiêu định hướng quan trọng của
sự nghiệp đổi mới. Phát triển con
người là trung tâm của chiến
lược phát triển, con người vừa
là chủ thể vừa là sản phẩm của
quá trình đổi mới; phát triển con
người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của quá trình phát triển.
Tập trung xây dựng con người
Việt Nam trở thành chủ thể của
quá trình đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế. Để
thực hiện nhiệm vụ chiến lược
này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chủ trương tiến hành “đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục, đào
tạo”, phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, gắn liền
với đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ tiên
tiến. Đồng thời, xác định phát
triển giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học - công nghệ là quốc
sách hàng đầu trong sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước,
nhất là trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư
(4.0) đang diễn ra nhanh chóng,
mạnh mẽ, “không có tiền lệ lịch
sử” trên toàn thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực, là nguồn lực nội
sinh quan trọng của phát triển
đất nước. Đảng Cộng sản Việt
Nam đặt nhiệm vụ xây dựng hệ
giá trị Việt Nam đặc trưng trong
giai đoạn mới đáp ứng với yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định mục tiêu và thành quả của
công cuộc đổi mới phải vì con
người, nâng cao đời sống mọi
mặt của người dân thông qua
thực hiện có hiệu quả các chính
sách xã hội, giải quyết các vấn
đề xã hội. Với quan điểm gắn
kết hữu cơ giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, Việt
Nam đã tập trung xây dựng, đổi
mới và từng bước hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội phù hợp,
linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiệu
quả, hiện đại và hội nhập quốc
tế; đồng thời, tập trung cho công
tác xóa đói giảm nghèo, dành ưu
tiên cao các nguồn lực cho các
địa phương nghèo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Từ năm
2017, Việt Nam đã chuyển sang
xác định hệ tiêu chí và các giải
pháp giảm nghèo bền vững theo
cách tiếp cận đa chiều, phù hợp
với xu thế của thế giới.
Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm
quan trọng của phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội
bền vững, Đảng Cộng sản Việt
Nam coi trọng lãnh đạo thực
hiện đồng bộ các chính sách,
giải pháp để không ngừng nâng
cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân; nâng cao
chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, chất lượng dân
số; có các giải pháp quản lý và
giải quyết hài hòa các quan hệ
xã hội; giải quyết có hiệu quả
những vấn đề xã hội bức xúc,
xây dựng môi trường sống lành
mạnh, văn minh, an toàn.
Mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế là một định hướng chiến
lược quan trọng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình đổi
mới. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra và thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa dạng hóa, đa phương
hóa trong quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế. Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi, kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín
của đất nước và góp phần vào
sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt
động đối ngoại, tiếp tục đưa
các mối quan hệ hợp tác đi vào
chiều sâu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác đối ngoại đa
phương, chủ động và tích cực
đóng góp xây dựng, định hình
các thể chế đa phương. Chú
trọng phát triển quan hệ hợp
tác, hữu nghị, truyền thống với
các nước láng giềng, thúc đẩy
quan hệ với các đối tác lớn, đối
tác quan trọng. Chủ động, tích
cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng
đồng vững mạnh. Mở rộng, làm
sâu sắc hơn và nâng cao hiệu
quả quan hệ đối ngoại của Đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân. Kiên quyết đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, hành
động can thiệp vào công việc
nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn
định chính trị của đất nước.
Triển khai mạnh mẽ định
hướng chiến lược chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế, xây dựng và
triển khai chiến lược tham gia
các khu vực mậu dịch tự do với
các đối tác kinh tế, thương mại
quan trọng, ký kết và thực hiện
hiệu quả các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới trong một
kế hoạch tổng thể với lộ trình
hợp lý, phù hợp với lợi ích của
đất nước. Chủ động tham gia và
phát huy vai trò tại các cơ chế
đa phương, đặc biệt là ASEAN
và Liên hợp quốc. Đẩy mạnh
hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực văn hóa, xã hội, khoa học
- công nghệ, giáo dục - đào tạo
và các lĩnh vực khác. Chủ động
và tích cực giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới hệ thống chính trị tạo
động lực cho quá trình đổi mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định đổi mới hệ thống chính
trị đóng vai trò then chốt trong
việc tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước và chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân
nhằm bảo đảm ổn định chính
trị - xã hội thúc đẩy công cuộc
đổi mới và phát triển đất nước.
Trong đó, chú trọng nghiên cứu,
hoàn thiện và tổ chức thực hiện
mô hình tổ chức tổng thể của
hệ thống chính trị phù hợp với
yêu cầu xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế.
Về xây dựng và phát huy dân
chủ: Xuất phát từ nhận thức dân
chủ là một giá trị cốt lõi của con
người, của xã hội, là mục tiêu và
động lực của quá trình đổi mới
và phát triển, Đảng và Nhà nước
Việt Nam xác định nhiệm vụ cốt
lõi là tôn trọng, bảo vệ và phát
huy quyền con người, quyền
công dân, gắn với trách nhiệm
và nghĩa vụ công dân (vấn đề
này được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh trong Bản Tuyên
ngôn độc lập 2-9-1945, được quy
định trong các bản Hiến pháp
1946, 1954, 1980, 1992 và được
hiến định rõ, đầy đủ trong Hiến
pháp 2013). Đẩy mạnh phát
triển các hình thức và phương
thức thực hiện dân chủ, nhất là
các hình thức dân chủ trực tiếp.
Phát huy dân chủ đồng thời với
tăng cường kỷ cương, kỷ luật,
tuân thủ pháp luật. Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định dân chủ
trong Đảng có ý nghĩa quyết
định đối với phát triển dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của
cả hệ thống chính trị, gắn với
dân chủ hoá toàn bộ đời sống xã
hội, tạo được đồng thuận xã hội,
tạo ra sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa do Đảng lãnh đạo: Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định
đây là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam vừa tiếp thu
những thành tựu chung của
nhân loại, vừa thể hiện bản sắc
riêng của Việt Nam; được xây
dựng thể hiện quyền lực nhà
nước thống nhất, có sự phân
công, phối hợp kiểm soát hiệu
quả giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp;
đồng thời xây dựng đồng bộ thể
chế, thiết chế kiểm soát quyền
lực, khắc phục tình trạng lạm
dụng quyền lực, quan liêu,
tham nhũng.
Phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp và các hội quần
chúng: Tích cực tổ chức triển
khai và nâng cao chất lượng
giám sát, phản biện xã hội của
các tổ chức này đối với hoạt
động của các tổ chức đảng, các
cơ quan nhà nước và đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Tiếp tục hoàn
thiện tổ chức bộ máy của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội gắn với
đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động theo hướng tập trung
cho cơ sở, gắn bó với đoàn viên,
hội viên, từng bước khắc phục
“hành chính hoá” hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội.
Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị và xã hội, nhất là
đối với Nhà nước: Đây là yếu tố
then chốt quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định rõ vai trò và thể chế lãnh
đạo: Đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội; Đảng chịu trách nhiệm
trước đất nước và nhân dân về
sự lãnh đạo của mình; các tổ
chức đảng và đảng viên hoạt
động trong khuôn khổ Hiến
pháp và luật pháp. Xác định rõ
cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị là “Đảng lãnh đạo -
Nhà nước quản lý - Nhân dân
làm chủ”. Đẩy mạnh đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng,
trong đó trọng tâm là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước, tôn trọng và phát
huy đầy đủ quyền lực của các cơ
quan nhà nước trong thể chế
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tập trung cho việc đổi mới công
tác cán bộ, nâng cao phẩm chất,
năng lực, chất lượng đội ngũ
cán bộ đảng viên, xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín ngang tầm nhiệm
vụ, coi đây là một nhiệm vụ có
tính chiến lược, “then chốt của
then chốt”; khắc phục những
yếu kém, bất cập trong tổ chức
bộ máy và cơ chế hoạt động của
hệ thống chính trị, xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả.
II. NÉT ĐẶC SẮC VÀ BÀI HỌC
QUA HƠN 30 NĂM ĐỔI MỚI
Kể từ Đại hội VI năm 1986,
đến nay đã qua 7 kỳ Đại hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam từng
bước hoàn thiện và cụ thể hóa
toàn diện các định hướng đổi
mới, phát triển, xác định rõ trọng
tâm trong từng giai đoạn. Ban
Chấp hành Trung ương Đảng các
khóa đã ban hành nhiều nghị
quyết về những vấn đề quan
trọng; lãnh đạo để Quốc hội thể
chế hóa trong Hiến pháp và trong
các luật, tạo cơ sở pháp lý ngày
càng đồng bộ và phù hợp cho quá
trình đổi mới; lãnh đạo Chính
phủ cụ thể hóa thành các cơ chế,
chính sách và giải pháp quản lý,
quản trị phát triển đất nước.
1. Nét đặc sắc phản ánh
tính quy luật của quá trình đổi
mới ở Việt Nam chính là việc
nhận thức về giải quyết ngày
càng có hiệu quả hơn các mối
quan hệ lớn
Về quan hệ giữa đổi mới, ổn
định và phát triển: Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định đổi mới
là động lực; ổn định là điều kiện,
tiền đề; phát triển nhanh và bền
vững là mục đích. Đổi mới, ổn
định và phát triển đều vì con
người. Con người vừa là mục
tiêu, động lực, vừa là chủ thể của
đổi mới, ổn định và phát triển.
Về quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị: Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định tập trung
đổi mới kinh tế, đồng thời từng
bước đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống
chính trị. Kết hợp chặt chẽ ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, từng bước đổi
mới chính trị một cách thận
trọng và vững chắc, giữ vững ổn
định chính trị. Đổi mới chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh
tế theo lộ trình thích hợp, với
trọng tâm hướng tới hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thúc
đẩy đổi mới toàn diện đất nước
theo mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Lấy kết quả việc thực
hiện mục tiêu này làm tiêu
chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu
quả của quá trình đổi mới và
phát triển.
Về quan hệ giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa: Điểm đột phá trong
nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam là đã khẳng định kinh
tế thị trường không phải là sản
phẩm riêng có của chủ nghĩa tư
bản, mà là thành tựu chung của
nhân loại. Kinh tế thị trường tự
nó không thể đi đến chủ nghĩa
xã hội, nhưng sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải
thông qua phát triển kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tuân
theo những quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời được
định hướng, dẫn dắt, điều chỉnh
bởi các nguyên tắc và bản chất
của chủ nghĩa xã hội trong từng
chặng đường phát triển. Thực
chất là nhận thức và vận dụng
hiệu quả các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường
nhằm xây dựng thể chế kinh tế
bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng phát triển nhanh, bền
vững vì lợi ích của đất nước, lợi
ích của nhân dân.
Về quan hệ giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa: Trong quá
trình đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thực hiện đổi mới
tư duy, điều chỉnh cấu trúc quan
hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ
sở hữu, các hình thức sở hữu và
phát triển nền kinh tế đa thành
phần để bảo đảm sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nhằm giải phóng và thúc
đẩy phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất.
Về quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội: Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đây là mối
quan hệ biện chứng giữa “ba
trụ cột” của thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Trong đó, mỗi
chủ thể phải phát huy được tốt
các mặt tích cực, mặt mạnh của
mình, đồng thời phối hợp hài
hòa để hạn chế các bất cập của
mỗi chủ thể, theo nguyên tắc
“Nhà nước mạnh - Thị trường
hiệu quả - Xã hội (người dân,
doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội…) năng động và sáng tạo”.
Về quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quán triệt quan điểm phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội đều
vì con người; tăng trưởng kinh
tế tạo nguồn lực để phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội; đồng thời, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo động
lực phát triển kinh tế, văn hóa;
phát triển văn hóa tạo nền tảng
tinh thần xã hội và nguồn lực
nội sinh để phát triển bền vững.
Về quan hệ giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: dựng nước đi đôi
với giữ nước. Bảo vệ là điều kiện
để xây dựng; xây dựng tạo sức
mạnh để bảo vệ, nhằm đảm bảo
cho đất nước phát triển nhanh,
bền vững, khắc phục nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa hơn về kinh tế;
đấu tranh làm thất bại âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch; ngăn
chặn, đẩy lùi những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Về quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định độc lập,
tự chủ là vấn đề có tính nguyên
tắc; tạo lập vị thế độc lập, tự chủ,
bao gồm độc lập, tự chủ về chính
trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại... Độc lập, tự
chủ gắn với chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế; xây dựng nền
kinh tế độc lập và tự chủ đi đôi
với hội nhập quốc tế, tăng cường
tiềm lực quốc gia, nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh
tế; phát huy sức mạnh nội lực,
đồng thời tranh thủ phát huy và
sử dụng có hiệu quả ngoại lực,
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Về quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ: Đây là mối quan
hệ chính trị - xã hội và pháp lý
giữa các chủ thể có vai trò, vị trí,
chức năng và nhiệm vụ khác
nhau, song đều cùng hướng
tới mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân
chủ, bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Đảng
Cộng sản Việt Nam chú trọng
đổi mới phương thức lãnh đạo,
phương thức cầm quyền, trong
đó trọng tâm là thông qua Nhà
nước, bằng Nhà nước; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa để thực thi quyền lực
và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong việc tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước, tham
gia giám sát và kiểm soát quyền
lực. Đổi mới mối quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ được tiến
hành đồng bộ, thống nhất trong
toàn bộ hệ thống chính trị, đồng
bộ ở tất cả các cấp từ Trung ương
đến cơ sở.
Việc xác định và giải quyết
các mối quan hệ lớn nêu trên
đánh dấu một bước tiến mới về
tư duy lý luận và lãnh đạo thực
tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới và phát triển
đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Các mối quan hệ lớn đó liên
hệ mật thiết với mục tiêu của đổi
mới là “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Việc nắm vững và chỉ đạo giải
quyết có hiệu quả các mối quan
hệ đó trong mỗi giai đoạn phát
triển và trong tất cả các lĩnh vực
là điều kiện và phương thức bảo
đảm thực hiện mục tiêu đổi mới
với trình độ ngày càng cao hơn,
hiệu quả hơn, bền vững hơn.
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho
thấy việc nhận thức và xử lý
các mối quan hệ cần phải được
thực hiện đồng bộ, nhất là mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa vai trò của Nhà nước, thị
trường và xã hội…
2. Nhìn tổng thể, qua hơn
30 năm đổi mới, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử
Đổi mới mang tầm vóc và ý
nghĩa cách mạng sâu sắc, toàn
diện, là sự nghiệp to lớn vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Sau
hơn 30 năm đổi mới Việt Nam
đã trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình;
đang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng
khá, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát
triển. Văn hóa - xã hội có bước
phát triển, công tác xóa đói giảm
nghèo đạt được những thành
tựu quan trọng, sớm đạt được
nhiều chỉ tiêu phát triển thiên
niên kỷ của Liên hợp quốc, được
quốc tế đánh giá cao; diện mạo
đất nước và đời sống của nhân
dân có nhiều thay đổi. Chính trị
- xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy
và ngày càng mở rộng. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh về
mọi mặt của đất nước được nâng
lên. Quan hệ đối ngoại được mở
rộng và ngày càng đi vào chiều
sâu. Quan hệ với các nước láng
giềng và các nước trong ASEAN
được củng cố. Đã thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện với tất cả các nước
lớn, quan trọng trên thế giới.
Chủ động, tích cực tham gia các
công việc chung của cộng đồng
quốc tế, các diễn đàn, tổ chức
khu vực và quốc tế, nâng cao vị
thế của đất nước.
Trong các năm qua, kinh tế
vĩ mô tiếp tục ổn định, các cân
đối lớn của nền kinh tế cơ bản
được bảo đảm; tổng kim ngạch
xuất - nhập khẩu đạt 425 tỷ đô
la Mỹ, cao nhất từ trước đến nay.
Sản xuất, kinh doanh tiếp tục
phục hồi và phát triển toàn diện
trên cả 3 lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ. Lĩnh
vực văn hoá - xã hội tiếp tục có
nhiều tiến bộ. An sinh xã hội và
phúc lợi xã hội được quan tâm
chăm lo, bảo đảm tốt hơn. Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
kiện toàn hệ thống chính trị,
đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu
cực được Đảng và Nhà nước
lãnh đạo, chỉ đạo làm quyết liệt
từ nhiều năm nay, thời gian
gần đây càng được đẩy mạnh
và bước đầu đạt được nhiều kết
quả cụ thể, tích cực, được nhân
dân đồng tình, ủng hộ; lòng tin
của nhân dân với Đảng và Nhà
nước được nâng cao... Những
thành tựu đó khẳng định đường
lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo; tạo tiền đề, nền
tảng quan trọng để đất nước tiếp
tục đổi mới và phát triển mạnh
mẽ trong những năm tới.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng
bộ và toàn diện. Nhiều chỉ tiêu,
tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu
đưa Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng
hiện đại chưa đạt được. Năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. Nhiều hạn chế, yếu kém
trong các lĩnh vực giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, văn
hóa, xã hội, y tế chậm được khắc
phục. Công tác dự báo, hoạch
định và lãnh đạo tổ chức thực
hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, quản lý phát triển xã
hội còn nhiều bất cập. Hội nhập
quốc tế có mặt chưa chủ động,
hiệu quả chưa cao... Đó cũng là
những vấn đề mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đang tập trung lãnh
đạo để khắc phục.
3. Từ những thành công và
chưa thành công qua hơn 30
năm đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã rút ra các bài học
quan trọng
Một là, trong quá trình đổi
mới phải chủ động, không
ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, vận
dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đổi mới phải
kiên định, không thay đổi mục
tiêu, nền tảng tư tưởng, đồng
thời phải luôn luôn sáng tạo
trong quá trình tổ chức thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn
quán triệt quan điểm “dân là
gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò
làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đổi
mới mà rời xa, đi ngược lợi ích
của nhân dân, sẽ dẫn đến thất
bại. Những ý kiến, nguyện vọng
và hoạt động sáng tạo của nhân
dân nảy sinh từ thực tiễn là một
trong những cơ sở để hình thành
đường lối đổi mới của Đảng. Đổi
mới phải luôn luôn dựa vào
nhân dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, bảo đảm tất
cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Ba là, đổi mới phải toàn diện,
đồng bộ, có bước đi phù hợp;
phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn,
bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận, tập trung giải quyết kịp
thời, hiệu quả những vấn đề do
thực tiễn đặt ra. Coi sự phát triển
của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở
để đổi mới tư duy lý luận, đường
lối, chủ trương, cơ chế, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Phải bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận để điều chỉnh, bổ sung,
phát triển đường lối đổi mới.
Trong quá trình đổi mới phải coi
trọng công tác tổ chức thực hiện
với bước đi, hình thức, cách làm
phù hợp, hiệu quả; khắc phục
tình trạng bảo thủ, trì trệ, nóng
vội, chủ quan, duy ý chí, đồng
thời phải chủ động, năng động,
không ngừng sáng tạo.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc lên trên hết; kiên
định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi; kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng phải kiên
định độc lập, tự chủ đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế nhằm tạo
ra sức mạnh tổng hợp để phát
triển đất nước nhanh và bền
vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam.
Năm là, phải thường xuyên
tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và của cả
hệ thống chính trị; tăng cường
mối quan hệ mật thiết với nhân
dân. Công cuộc đổi mới là sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố quyết định thành công của
công cuộc đổi mới. Do đó phải
luôn đổi mới và nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng; xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh. Thường xuyên kiện
toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Phát huy vai trò Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân trong việc tập hợp
các tầng lớp nhân dân, phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Thời kỳ phát triển mới, đòi
hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam,
toàn bộ hệ thống chính trị cùng
toàn thể nhân dân Việt Nam
phải quyết tâm phấn đấu, nâng
cao bản lĩnh chính trị, tầm vóc
trí tuệ, phẩm chất đạo đức để
hoàn thành sứ mệnh lịch sử
trước đất nước, dân tộc; đồng
thời, phải không ngừng sáng
tạo, đổi mới trên cơ sở vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; bám sát thực tiễn đất
nước và thế giới; tham khảo
kinh nghiệm các nước để đề ra
đường lối, chính sách đúng đắn,
phù hợp với tình hình mới, xây
dựng nước Việt Nam “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Chúng tôi hy vọng
qua Hội thảo lần này, sẽ tham
khảo được nhiều điều bổ ích từ
thực tiễn cải cách mở cửa của
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Kết
quả Hội thảo sẽ góp phần củng
cố, tăng cường quan hệ truyền
thống thắm tình đồng chí, anh
em giữa hai Đảng, hai Nhà nước
và nhân dân hai nước.
Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
___________________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005,
tr. 481.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd,
tr, 459.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, H,
2017, tr. 29.