Trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc không chỉ là khát vọng lưu truyền mà còn là một hành trình đấu tranh kiên cường, luôn được tiếp sức, để mỗi người dân và con cháu muôn đời mai sau được thụ hưởng những quyền cao cả đó và thấu hiểu sâu sắc hơn giá trị cao quý của những mỹ từ đó.
ĐẤU TRANH CHO ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
Trong trái tim mỗi người dân Việt Nam yêu nước, Tổ quốc giản dị, thân thương là dải đất hình chữ S; là khoảng trời, vùng biển, đảo, biên giới thiêng liêng thấm đẫm máu xương của tiền nhân, của các vị anh hùng dân tộc và các thế hệ cha anh. Vì thế, tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước bao đời, không cam tâm khi đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ; khi nhân dân bị áp bức, bóc lột tận xương tủy, không được thụ hưởng quyền con người, đến ngay cả quyền được sống của một con người cũng bị chà đạp, nên với mỗi người dân thuộc địa nói chung, người dân Việt Nam của xứ Đông Dương thuộc Pháp nói riêng, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đã không chỉ dừng lại ở khát vọng mà trở thành động lực, đích phấn đấu.
Vì yêu chuộng độc lập, tự do cho Tổ quốc và khát khao hạnh phúc cho đồng bào; vì muốn cứu nước giải phóng dân tộc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc bôn ba tìm đường cứu nước. Trên hành trình bôn ba qua nhiều quốc gia, châu lục để tìm con đường giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, giải phóng đồng bào mình khỏi áp bức bất công và cao hơn nữa là giải phóng giai cấp, giải phóng con người, để mỗi dân tộc - mỗi con người đều được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo nghiệm và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn theo kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917: Con đường cách mạng vô sản.
Từ đó, Hồ Chí Minh đã nỗ lực hoạt động trong thực tiễn và trên phương diện lý luận để khẳng định vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa, tính chủ động của cách mạng ở thuộc địa; phát huy sức mạnh của khối đoàn kết của nhân dân ở các thuộc địa trong sự nghiệp đấu tranh để giải phóng dân tộc mình, giai cấp mình và chính bản thân mình. Theo Người, chỉ khi nào dân tộc được độc lập, tự do thì người dân mới được thụ hưởng giá trị của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc thật sự và độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi độc lập dân tộc là điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự phát triển của đất nước và chỉ được bảo đảm vững chắc, có ý nghĩa tiến bộ khi gắn liền với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính là đích đến của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cho nên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”[1].
Vì thế, cũng chính Người đã bằng những việc làm cụ thể sau đó để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, vào trong phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước; đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán; thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ, động viên và tập hợp quần chúng nhân dân trong các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể chính trị, các tổ chức hội phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn cách mạng để nhân nguồn sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, tạo dựng và tích bồi nguồn sức mạnh của lực lượng cách mạng nhằm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Ngay từ khi ra đời, ngọn cờ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao khi khẳng định trong Chánh cương vắn tắt "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[2], để "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "Dân chúng được tự do tổ chức", "Nam nữ bình quyền"… Trong suốt những năm sau đó, thông qua các cuộc tổng diễn tập (1930-1931), (1936-1939), Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phát huy sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết để từng bước đấu tranh cho độc lập, tự do. Đặc biệt, khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước (28/1/1941).
Kịp thời và chủ động trước sự phát triển nhanh mạnh của phong trào cách mạng, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương thứ 8 (5/1941): quyết định thay đổi chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"[3]; đồng thời, thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp "lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta"[4]…
Chuẩn bị cho ngày vùng lên của toàn dân tộc, Người và Trung ương Đảng đã nỗ lực xây dựng và chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng căn cứ địa cách mạng và thành lập Khu giải phóng khi thời cơ chín muồi; cổ vũ và động viên mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai tầng, tôn giáo, đảng phái, già, trẻ, gái, trai, đoàn kết, thống nhất trong các tổ chức Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh,v.v.. để chuẩn bị tạo dựng thời cơ và chờ thời cơ đến. Giữa tháng 8/1945, khi thời cơ có một không hai đã chín muồi, đồng bào cả nước theo kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta"[5] đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các địa phương trong cả nước. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Tháng Tám năm 1945 đã thành công. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam đã được độc lập, tự do sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị; nhân dân Việt Nam đã trở thành chủ nhân của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chứ không còn là thần dân, là nô lệ ở xứ Đông Dương thuộc địa…
Vậy là, với 15 năm kiên trì đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", đã biến khát vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của muôn đời, của muôn dân trở thành hiện thực trên mảnh đất Việt Nam "đầu sóng, ngọn gió" - mảnh đất mà lịch sử oai hùng luôn phải dựng nước đi liền cùng giữ nước.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc đổi đời lịch sử, đã biến xứ An Nam thuộc địa bị xóa tên trên bản đồ thế giới trở thành một quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam đã giành lại được quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và tự quyền tự quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó và Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân và thế giới "là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”[6]. Vì thế, đó không chỉ là hiện thân khát vọng của một dân tộc muốn được độc lập, con người muốn được sống trong tự do, được thụ hưởng những quyền con người cao cả nhất mà còn khẳng định quyết tâm, thành quả sự phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.
HIỆN THỰC ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH PHÚC Ở VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính những quyền làm người cao cả nhất theo Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người, song những quyền đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập. Vì những giá trị cao quý đó, suốt chiều dài lịch sử, nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ đấu tranh để giành lấy/giành lại. Trân trọng giá trị và thành quả của Cách mạng Tháng Tám, không lâu sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 12/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 49 về việc ghi tiêu đề: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ nhất; bên dưới là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc trên các công văn, điện văn, công điện, trát, đơn từ, báo chí, chúc từ,v.v..
6 chữ quý giá Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ghi dưới quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hiện thân khát vọng của toàn dân tộc; là sự hiện thực hóa tâm nguyện và ý chí "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[7] của Hồ Chí Minh từ thập niên 1920; đồng thời cũng là sự chắt lọc, vận dụng chất tinh túy trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" và Người nguyện cùng Đảng ta, nhân dân ta kiên trì thực hiện "ham muốn tột bậc" đó. Song thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã bị thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ phá bỏ. Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất, không cam tâm làm nô lệ, không để quyền sống của mỗi người dân Việt Nam lại bị tước đoạt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thề quyết tâm cùng đồng bào và chiến sĩ cả nước tiến hành trường kỳ chống thực dân Pháp với tinh thần và ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước; đã tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với khát vọng: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, hòa bình thật sự, hòa bình trong độc lập tự do” và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do"[8]...
Trong 30 năm trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đầy gian khổ và hy sinh, thắng lợi của trận Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Miền Nam đã được giải phóng, hai miền Nam Bắc đã “sum họp một nhà”, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những nỗ lực của nhân dân Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trải dài mấy thập niên cũng chính là để bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người; trong đó, có quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do và quyền tự quyết của dân tộc - được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình. Vì vậy, thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đã trở thành nguồn cảm hứng, khích lệ cho cuộc đấu tranh của hàng chục quốc gia khác ở châu Phi, Mỹ La tinh trong thập niên 1960, 1970.
Có thể nói, trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc đã không chỉ là khát vọng mà còn là hệ giá trị vô giá và trở thành trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân kiên định thực hiện. Chính lý tưởng ấy, lẽ sống ấy và niềm tin được sống Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc trong một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất đã trở thành động lực để nhân dân ta nguyện một lòng đi theo Ðảng, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục trong hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[9], chính thể chế nhà nước cùng những quyền lợi và nghĩa vụ công dân được quy định trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đã cho thấy, trong điều kiện cụ thể của đất nước, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nỗ lực thực thi quyền con người theo quy định của pháp luật. Theo đó, trong điều kiện có chiến tranh, chính quyền phải vừa cứng rắn vừa mềm dẻo để thực hiện thắng lợi mục tiêu kháng chiến và kiến quốc (kháng chiến chống thực dân Pháp); trong điều kiện vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà ở miền Nam (kháng chiến chống Mỹ, cứu nước), mục tiêu bảo đảm độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân, quyền tự do, dân chủ của nhân dân cũng đã được thực hiện…phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, nước nhà hòa bình, độc lập và thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân cả nước lại tiếp tục đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng vượt qua khó khăn về mọi mặt sau những năm dài chiến tranh, tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Chiến tranh đã lùi xa, song để có Độc lập - Tự do - Hạnh phúc trọn vẹn, mỗi người dân Việt Nam lại càng nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mình trong thực thi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong hòa bình, mỗi người dân trên đất nước Việt Nam đều cảm nhận được sâu sắc hơn giá trị của độc lập, tự do, của niềm vui được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, để ngày mỗi ngày đều được đóng góp công sức, trách nhiệm vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Hơn 90 năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, 75 năm sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 35 năm kiên trì thực hiện đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,v.v.. đã góp phần tạo dựng một diện mạo mới của Việt Nam, một vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện đáng kể, bộ mặt của đất nước và cuộc sống của người dân có những thay đổi. Trên hành trình đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nỗ lực để mỗi người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân, quyền dân chủ của nhân dân; đồng thời coi trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và hiểu biết giữa các quốc gia, trong đó, có việc thực hiện tốt các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Chủ trương, đường lối của Đảng, chiến lược, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đều được xây dựng trên cơ sở lấy người dân làm trung tâm, hướng về người dân và phục vụ người dân đã mang lại những kết quả tích cực trong việc bảo đảm quyền con người, từ quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đến quyền dân sự, chính trị, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Những đóng góp và nỗ lực đầy trách nhiệm của một dân tộc yêu chuộng độc lập, tự do, hòa bình và công lý trên nhiều lĩnh vực, không chỉ trong khu vực mà còn trong cộng đồng quốc tế theo quan điểm "bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cở sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"[10]; trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; trong tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển bền vững đất nước, nhất là trong phòng và chống đại dịch Covid-19; đặc biệt, việc tham gia và thực hiện hầu hết các công ước của Liên hợp quốc về quyền con người: “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc” (1981); “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (1981); “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội” (1982); “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị” (1982); “Công ước về quyền trẻ em” (1990); “Công ước chống tra tấn (CAT) và “Công ước về quyền của người khuyết tật” (2014)… và trong thực thi quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 càng làm sâu sắc hơn giá trị lớn lao của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, càng cho thấy Việt Nam đang chuyển mình với những bước phát triển đột phá để bảo vệ vững chắc Độc lập - Tự do - Hạnh phúc!
Đến với đất nước và con người Việt Nam - đến với đất nước đã lọt vào tốp 10 “Quốc gia đáng sống” trên thế giới, được cảm nhận giá trị của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc; tìm hiểu về hành trình đấu tranh cho các giá trị làm người cao cả đó và quá trình hiện thực hóa các quyền con người đó tại Việt Nam, bạn bè quốc tế từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, từ các nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản, "có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo Thiên chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: “Muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”[11]. Đó chính là minh chứng vừa giản dị vừa sinh động nhất cho khát vọng, tinh thần, ý chí và quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam cho/vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc trong hơn 90 năm qua!
Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng cháy bỏng, đồng thời cũng là quyền của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Trong dòng chảy lịch sử nhân loại và xuyên suốt hàng ngàn năm dựng xây gắn liền với bảo vệ giang sơn gấm vóc Việt Nam, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn là khát vọng, là nỗ lực phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ. Với Việt Nam, 75 năm qua từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến nay, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn xuất hiện cùng quốc hiệu Việt Nam, khẳng định giá trị lớn lao và ý nghĩa trường tồn của 6 chữ quý báu này; và Hạnh phúc hiện đang được coi là một điểm nhấn trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng./.
---------
TS. Văn Thị Thanh Mai
[1]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.496
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.112-113
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.596
[6] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội. 1970, tr. 116
[7]Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr. 94
[8]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.131
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.153
[11] Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình hình thành và phát triển, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.9