1. Giá trị văn hóa là
yếu tố cốt lõi của văn hóa, được con người sáng tạo và kết tinh trong
quá trình lịch sử, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Thông qua hệ giá
trị, văn hóa thể hiện vai trò động lực và điều tiết sự phát triển của
xã hội.
Các
giá trị văn hóa được đúc kết, xây dựng và củng cố trong lịch sử phát
triển lâu dài, được chiêm nghiệm, kiểm chứng, đi vào từng hành vi, nếp
nghĩ của mỗi cá nhân cũng như trong tư duy, phương thức hành động của cả
hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, chính những trầm tích văn hóa
kết tinh ở hệ giá trị đã tạo nên sức mạnh nội sinh, giúp dân tộc ta
giành được những thắng lợi trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong
thời đại Hồ Chí Minh, các giá trị văn hóa Việt Nam đã khơi dậy khát
vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trong
toàn dân, thực sự trở thành động lực tinh thần to lớn, góp phần chuyển
hóa thành sức mạnh vật chất để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong hơn 35 năm đổi mới, tình hình trong nước và thế giới có những chuyển biến đa chiều, phức tạp. Ở trong nước, về kinh tế,
đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự phát triển của
kinh tế tri thức; về xã hội, đó là sự chuyển đổi từng bước từ xã hội truyền thống nông nghiệp sang xã hội công nghiệp hiện đại. Về bối cảnh quốc tế,
là xu thế toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự
phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ cùng nhiều thách thức an
ninh truyền thống, phi truyền thống... Trong bối cảnh đó, hệ giá trị văn
hóa Việt Nam đã có những biến đổi lớn. Một bộ phận có xu hướng chuyển
từ đề cao các giá trị tinh thần, đạo đức sang đề cao các giá trị vật
chất, kinh tế; xu hướng coi trọng các giá trị tình cảm sang coi trọng
giá trị pháp lý; xu hướng dựa vào tập thể, đề cao cộng đồng chuyển sang
khẳng định cái tôi, giá trị tài năng cá nhân; xu hướng tôn trọng kinh
nghiệm, trọng lão sang đề cao tri thức khoa học, trọng tài năng, thực
lực; xu hướng trọng tĩnh chuyển sang trọng động (trọng năng động, ưa đổi
mới, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập); xu hướng sống
theo tôn ti, trật tự chuyển sang đòi hỏi cuộc sống tự do, bình đẳng...
Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định 5 giá trị
bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam là lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính
cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống.
Sau
15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, trước yêu
cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước” đã xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam với 4 đặc trưng là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; chăm lo xây dựng con người với 7 đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Như
vậy, có thể thấy, cùng với sự biến đổi của quá trình phát triển kinh tế
- xã hội sau hơn 35 năm đổi mới, các giá trị văn hóa Việt Nam cũng có
những biến đổi lớn, song các giá trị truyền thống, cốt lõi, như yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết... đã được định hình trong lịch sử
và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc tiếp tục được gìn giữ, phát huy. Văn
hóa tiếp tục phát huy vai trò quan trọng, “là nền tảng tinh thần xã
hội”, là “mục tiêu và động lực” trong xây dựng và phát triển đất nước,
góp phần tạo nên sức mạnh dân tộc trong bối cảnh mới.
2. Các giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi, là cơ sở quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa VIII đã xác định những quan điểm cơ bản, như văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết chỉ rõ đặc điểm của nền văn hóa mà đất nước ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Yếu tố “tiên tiến” ở đây bao hàm cả giá trị yêu nước và tiến bộ,
trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của
con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã
hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc được Nghị quyết xác định bao gồm
những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước.
Nghị quyết cũng xác định nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng. Tính
thống nhất và tính đa dạng phản ánh sâu sắc mối quan hệ giữa bản sắc
văn hóa dân tộc (quốc gia) Việt Nam và sắc thái văn hóa các dân tộc (tộc
người), văn hóa địa phương. Bản sắc văn hóa kết tinh ở hệ giá trị văn
hóa dân tộc (quốc gia), thấm sâu vào mọi hoạt động vật chất, tinh thần,
phong tục, tập quán, sinh hoạt cá nhân, mang diện mạo, trí tuệ, tâm hồn,
phong cách của các dân tộc hay cộng đồng quốc gia - dân tộc và được
tiếp nối, phát huy, phát triển trong các thời kỳ lịch sử. Việt Nam là
một quốc gia đa dân tộc. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2019 cho thấy, người Kinh ở nước ta chiếm đa số (chiếm 85,3% dân số cả nước); 53 dân tộc còn lại có 14,123 triệu người (chiếm
14,7% dân số cả nước). Đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú và sinh
sống thành cộng đồng, chủ yếu ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng
xa với nhiều sắc thái văn hóa phong phú, đa dạng. Các dân tộc trên lãnh
thổ nước ta dù tiếng nói, phong tục, tập quán khác nhau, nhưng đều là
những bộ phận của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng
đấu cật, đoàn kết đấu tranh chống thiên tai, địch họa để dựng nước và
giữ nước. Trên cơ sở “mẫu số chung” đó, những sắc thái văn hóa riêng
biệt của từng dân tộc được định hình, phát triển và bổ sung cho nhau,
tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Như
vậy, có thể thấy, quan điểm “nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” là tư tưởng tiến
bộ và nhân văn, phù hợp với thực tiễn xây dựng và phát triển của cộng
đồng 54 dân tộc Việt Nam và xu thế chung của cộng đồng quốc tế đang
hướng tới với sự đa dạng văn hóa. Do đó, bảo đảm
tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là một nội dung
cơ bản của xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định, xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta xây dựng. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu
rõ, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI
nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học.
Nhân
dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -
19/5/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Nền
văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị
tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng
cao... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”(1).
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế
chính là xây dựng những giá trị, chuẩn mực con người Việt Nam phù hợp
và gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia -
dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị
thời đại, như yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực,
trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi
văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc(2). Thông
qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có thể thấy rõ những giá
trị văn hóa Việt Nam đã và đang xây dựng, củng cố là những giá trị tiến
bộ, nhân văn, kết hợp truyền thống với hiện đại và tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, góp phần hướng tới một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trao truyền các giá trị văn hóa cho thế hệ mai sau. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
3.
Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thời gian qua trên cả nước đã đạt được những kết quả nhất định. Nhận
thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực.
Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được
kế thừa, bảo tồn và phát triển. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
tính đến hết năm 2018, Việt Nam có gần 3.500 di tích được xếp hạng quốc
gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt, 12 di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại. Hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị đang được bảo
quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng; gần 8.000 lễ hội được lưu
truyền gắn với nhiều phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng
nghề thủ công, văn hóa ẩm thực, trang phục..., trong đó có nhiều phong
tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và
phục dựng nhằm bảo đảm tính đa dạng, phong phú về sắc thái văn hóa của
các vùng, miền trên cả nước. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế
ngày càng được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn
hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Các loại hình, các sản phẩm
và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới,
nhiều mặt của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở
thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống văn
hóa của nhân dân ngày càng phong phú, giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình
thành. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được biểu dương,
lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống xã hội, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây
dựng và phát triển đất nước nói chung. Công tác quản lý nhà nước về văn
hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước hoàn thiện. Đội ngũ làm
công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển. Việc đấu tranh, phê phán,
đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai
trái gây hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng; qua đó vai trò điều
tiết của văn hóa tiếp tục được phát huy. Hoạt động giao lưu, hợp tác và
hội nhập quốc tế có bước phát triển mới, góp phần quảng bá các giá trị
văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình giao lưu văn
hóa, tiếp thu tinh hoa và các giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại để
bồi đắp và xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình xây dựng văn hóa
nước ta vẫn còn không ít hạn chế. Văn hóa chưa được quan tâm và phát
triển tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn
lực nội sinh, động lực của sự phát triển bền vững đất nước. Môi trường
văn hóa “vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận đảng viên và người dân có chiều hướng gia tăng. Vẫn còn khoảng
cách khá lớn trong hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa
với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân, quá trình rút ngắn khoảng
cách này diễn ra còn chậm. Ở nhiều vùng, miền trên cả nước, nhất là vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống văn hóa tinh thần của người dân
còn nghèo nàn, đơn điệu; ít có cơ hội tiếp cận thông tin cũng như thụ
hưởng và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Thực tế còn có một số
sản phẩm văn hóa chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm
chí phản văn hóa. Bên cạnh đó, ở nhiều nơi, công tác bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn
chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học,
gây lãng phí nguồn lực và quản lý chưa theo kịp sự phát triển. Một số
cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục
đích. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh
tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng.
Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động
văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử
dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý
văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn
chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá thiếu chọn lọc sản phẩm văn
hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ
phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Hiện
nay, bên cạnh những thời cơ, đất nước ta cũng đang đối mặt với những
thách thức mới do tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc
tế; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tác động từ
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa
số..., cùng những thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống,
nhất là xung đột vũ trang, sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh, như đại
dịch COVID-19... Những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa thời gian qua cũng là những rào cản
lớn đối với phát triển văn hóa, trong đó có mục tiêu xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Trước
những thời cơ và thách thức đặt ra trong thời kỳ mới, để thực hiện được
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước ta là tiếp tục xây dựng, giữ gìn
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, tạo động lực
thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần thực
hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất,
tích cực đẩy mạnh và đa dạng hóa các biện pháp tuyên truyền, giáo dục
để nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền (đặc biệt là đội ngũ
cán bộ quản lý và cán bộ công tác trong lĩnh vực văn hóa) và toàn dân về
vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa, hệ giá trị văn hóa đối với
việc bồi đắp dân khí và thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước; từ đó
xây dựng ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam trong
mỗi công dân, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện
thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045 mà
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị trong việc phát huy giá trị văn hóa, đề cao vai trò chủ
thể của nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Đấu
tranh, ngăn ngừa kịp thời các hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch; phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa - tư
tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và các giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc.
Thứ hai, đổi
mới thể chế văn hóa, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa. Gắn
kết văn hóa với chính trị, với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của các cấp, các ngành và địa phương; lồng ghép hoạt động bảo tồn và
phát huy hệ giá trị văn hóa trong triển khai chiến lược phát triển văn
hóa và du lịch Việt Nam. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý lễ hội, hiệu
quả hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cơ chế
Nhà nước đặt hàng các doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội để đa dạng hóa và
nâng cao chất lượng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, đáp ứng yêu cầu
nâng cao dân trí, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng
hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia trong thời kỳ mới phù hợp
với nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Thứ ba, triển
khai hiệu quả “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển từng ngành công nghiệp văn hóa với những lộ trình, mục tiêu
ưu tiên và giải pháp phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn
hóa cao và đồng bộ, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế về tài nguyên văn
hóa đa dạng, hệ giá trị văn hóa Việt Nam để phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa có sức cạnh tranh; nâng cao năng lực sản xuất và sáng tạo
các giá trị văn hóa mới, tạo ra các sản phẩm văn hóa đa dạng với hàm
lượng tri thức cao, mang đậm giá trị văn hóa dân tộc; đổi mới hoạt
động quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh
nghiệp văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Thứ tư,
nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, tạo điều kiện thu hút và khuyến khích các tổ chức, hiệp hội,
doanh nghiệp và nghệ sĩ tham gia vào các hoạt động văn hóa nhằm đa dạng
hóa nguồn lực vật chất và
sáng tạo cho phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế
giới. Từng bước xây dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm của các tổ chức văn
hóa, nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất sản phẩm văn hóa. Hoàn thiện
cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển văn
hóa. Tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa.
Thứ năm,
tiếp tục thực hiện hiệu quả các hoạt động tôn vinh, khen thưởng kịp
thời gương “người tốt, việc tốt”; xây dựng những mô hình mang tính biểu
tượng trong xã hội (cá nhân, tập thể, doanh nghiệp, đặc biệt là thế hệ
trẻ...) với những phẩm chất tiêu biểu, tạo dựng được lòng tin
cho mọi người, có sức chinh phục và lan tỏa trong xã hội, khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước. Thực
hiện chính sách đãi ngộ các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có công bảo
vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; khuyến khích đội
ngũ văn nghệ sĩ trong và ngoài nước phát huy tài năng, tâm huyết để
sáng tạo, lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp trong xã hội.
Thứ sáu, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa củng
cố, nâng cao ý thức quốc gia - dân tộc và tôn trọng ý thức dân tộc -
tộc người; bảo đảm sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, tăng cường
vị thế, sức mạnh tổng hợp quốc gia với phát huy lợi thế của tính đa
dạng về mặt địa lý, văn hóa, xã hội và nhân văn của từng vùng, địa
phương, địa vực; tăng cường giáo dục tình cảm, niềm tin, lòng tự hào đối
với lãnh tụ của quốc gia - dân tộc, của chế độ chính trị, đi đôi với
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở các cấp, nhất là cán bộ địa phương là
người dân tộc thiểu số và phát huy vai trò của già làng, trưởng bản;
tăng cường vai trò của quốc ngữ (tiếng Việt) đi đôi với tôn trọng, phát
huy tiếng mẹ đẻ các tộc người trong chính sách ngôn ngữ quốc gia; đẩy
mạnh giáo dục để lan tỏa những giá trị có tính biểu tượng cao quý và
thiêng liêng của quốc gia - dân tộc (quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, quốc
lễ, quốc phục, quốc hoa, quốc tửu, quốc yến...) đi đôi với tôn trọng,
phát huy các loại hình văn hóa đa dạng của từng cộng đồng dân tộc, địa
phương (như hệ thống lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa, trang phục, nghề
truyền thống, ẩm thực, kho tàng văn hóa dân gian, tri thức dân gian…);
qua đó, bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, góp
phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc./.
Đinh Giang (tapchicongsan.org.vn)
_________________________
(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr.9.
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12/2021, tr.11.