Một trong những vấn đề lớn nhất đang được các nhà khảo cổ học Việt Nam quan tâm là làm sao để bảo vệ được di tích khảo cổ học trước nguy cơ bị hủy hoại và xóa sổ. Trước tiên, việc bảo vệ và bảo tồn di tích khảo cổ học trước và sau khai quật như thế nào vẫn là một bài toán chưa có lời giải.
NHIỀU DI TÍCH KHẢO CỔ CHỈ CÒN TRÊN GIẤY
Năm 1993, các nhà khảo cổ thuộc Viện Khảo cổ học đã thống kê, toàn
quốc có khoảng trên dưới 100 di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ kim khí.
Chưa đầy 10 năm sau, con số này đã nhảy vọt lên tới 917, phân bố ở 50
tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Tuy nhiên, chỉ hơn 10 năm tiếp theo, các
nhà khảo cổ học điều tra và ước đoán, có đến 90% số lượng di tích khảo
cổ thời kỳ kim khí được thống kê đã bị xâm phạm nghiêm trọng, nhiều di tích chỉ còn trên giấy, nhất là các di tích khảo cổ học về thời đại Hùng Vương.
Trong đó, có thể kể tới di tích Phùng Nguyên (Phú Thọ) nổi tiếng thế
giới được sử dụng để đặt tên cho văn hóa Phùng Nguyên, giai đoạn đầu
tiên của thời đại kim khí, nay đã bị xóa sổ hoàn toàn, hiện đã biến
thành một loạt lò gạch hằng ngày nhả khói lên trời. Di tích Hồng Đà (Phú
Thọ) nổi tiếng vì là một trong những công xưởng lớn chế tác vòng trang
sức đá lớn và tinh xảo, nay đã biến thành bãi rác. Di tích Tràng Kênh,
Thủy Sơn, các khu mộ táng ở Thủy Nguyên (Hải Phòng) đã bị xoá sổ hoàn
toàn. Ở phía Nam, một loạt di tích vùng rừng ngập mặn thuộc huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai, như: Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá... nay đã bị đào
thành các ao hồ nuôi tôm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đáng buồn trên, song có thể
quy vào một nguyên nhân cơ bản là các cấp quản lý có thẩm quyền, cán bộ
và người dân không thực hiện nghiêm Luật Di sản văn hóa và các văn bản
pháp quy của Nhà nước đối với công tác khảo cổ học. Thêm nữa, việc xây
dựng kế hoạch bảo vệ các di tích khảo cổ học hiện nay tại Việt Nam hoàn
toàn chưa có. Nếu không thực hiện nghiêm luật pháp và có những biện pháp
kịp thời thì chỉ trong một vài thập kỷ tới nhiều di sản khảo cổ học
tiếp tục biến mất và riêng các di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ Hùng
Vương dựng nước sẽ bị biến mất hoàn toàn.
NHIỀU BẤT CẬP CHƯA THỂ THÁO GỠ
Trong quá trình thực hiện công tác khảo cổ học, nhiều bất cập liên
quan khác cũng phát sinh như việc bảo vệ, bảo tồn di tích và di vật sau
khai quật. Đầu tiên, lấp hố bảo tồn đang là biện pháp được sử dụng phổ
biến do hầu như tất cả các di tích khảo cổ học không có điều kiện bảo
tồn tại chỗ, lâu dài nên các hố khai quật đều được đóng lại. Hạn chế lớn
của việc lấp hố bảo tồn là không có điều kiện trưng bày, quảng bá giá
trị di tích, nhưng ưu điểm là sẽ bảo tồn nguyên vẹn được di tích dưới
lòng đất để nó không bị hư hại, biến dạng bởi tác động của môi trường và
con người.
Thứ hai là trường hợp bảo tồn di tích sau khai quật bằng nhà mái che
nhằm hướng tới phát huy giá trị lâu dài của khu di tích. Tiêu biểu là
trường hợp bảo tồn các di tích cung điện Lý-Trần-Lê ở Khu di tích Hoàng
thành Thăng Long (Hà Nội). Ở đây, do tính chất và tầm quan trọng đặc
biệt của khu di tích nên nhà mái che đã được đầu tư xây dựng từ năm 2005
để bảo vệ quần thể di tích đang lộ thiên dưới lòng đất. Hiện nay di
tích này được đầu tư và xây dựng nhà mái che quy mô xứng tầm di sản thế
giới. Tuy nhiên, nhiều nhà mái che khác do điều kiện thực tế cho nên che
xong rồi để đấy khiến cho di tích bị hoang phế, rêu mốc, nước ngập.
Thứ ba, trường hợp xây dựng công trình mới bên cạnh di tích vừa khai
quật, điển hình là Di tích đền Thái (Quảng Ninh), chùa Dạm (Bắc Ninh),
Tòa Cửu phẩm Liên hoa ở Côn Sơn (Hải Dương). Việc xây dựng công trình
kiến trúc mới bên cạnh di tích vừa bảo vệ được nguyên vẹn di tích cũ,
vừa có di tích mới để phát huy. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng lưu ý
là cách làm này đã phá vỡ cảnh quan của di tích cũ, nhất là phá vỡ các
yếu tố phong thủy phương Đông mà các kiến trúc xưa thường chú ý hàng
đầu.
Thứ tư, trường hợp xây dựng công trình mới chồng lên di tích, di tích
nằm dưới tầng hầm của kiến trúc mới. Đó là trường hợp xây dựng mới ở
chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Trường hợp này vừa có công trình xây dựng mới
vừa có thể phát huy được di tích cổ dưới lòng đất. Tuy nhiên, nếu không
thiết kế đẹp và không có các giải pháp bảo tồn cấp thiết thì di tích
dưới tầng hầm cũng bị xuống cấp và không phát huy được giá trị, đồng
thời ẩm mốc sẽ xuất hiện.
Thứ năm, trường hợp xây dựng mới hoàn toàn trùm lên trên di tích khảo
cổ. Điển hình là chùa Ngọa Vân (Quảng Ninh) đã được Viện Khảo cổ học
khai quật làm xuất lộ toàn bộ nền móng còn nguyên vẹn, xác định rõ hình
thái cấu trúc có niên đại thuộc thời Lê Trung hưng. Quá trình chuẩn bị
xây dựng lại chùa Ngọa Vân đã được giới khoa học góp ý theo phong cách
thời Lê Trung hưng. Nhưng sau đó một thời gian, khi các nhà khoa học
quay trở lại thì một ngôi chùa mới tinh, giá trị một tuổi được dựng lên
không còn một chút nào dấu tích của ngôi chùa nổi tiếng 400 năm tuổi của
Thiền phái Trúc Lâm. Trong khi đó, các di tích bên dưới được xử lý thế
nào, các nhà quản lý, các nhà khoa học đều không biết.
Từ dẫn dụ trên, tôi xin kiến nghị các cấp quản lý có thẩm quyền nên
xem xét chỉ đạo rà soát tổng thể vấn đề bảo vệ, bảo tồn các di tích khảo
cổ học, thực trạng việc trùng tu, xây dựng mới các di tích sau khai
quật, phân tích các ưu điểm và nhược điểm, tham khảo kinh nghiệm quốc tế
để đưa ra các điều luật, các giải pháp, các quy chế nghiên cứu, bảo vệ,
bảo tồn, trùng tu, xây dựng, cải tạo đối với các di tích khảo cổ sau
khi khai quật. Nên thiết lập một đường dây nóng để các nhà khoa học và
người dân thông báo các trường hợp khẩn cấp về tình trạng vi phạm Luật
Di sản văn hóa đối với các di tích khảo cổ học nói riêng, các di tích
lịch sử - văn hóa nói chung./.
PGS. TS. Tống Trung Tín
Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam
(Nguồn: qdnd.vn)