Chủ Nhật, 24/11/2024
Dân số, gia đình, trẻ em
Thứ Bảy, 31/8/2013 16:52'(GMT+7)

Giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang thang trong Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

Một số vấn đề về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

Đảng và Nhà nước ta rất quyết tâm và đã dành nhiều sự quan tâm cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (BVCSGDTE). Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong việc BVCSGDTE. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15-6-2004 quy định: “Trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải coi trọng việc phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em; kiên trì trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khỏe, tinh thần và giáo dục đạo đức; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt”(1).

Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, ngày 13-4-2007, về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội và sau này được sửa đổi bởi Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, ngày 27-2-2010, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, ngày 13-4-2007, của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có trẻ em. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg, ngày 26-2-2001, về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 với 4 nhóm mục tiêu cụ thể về dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo vệ trẻ em và vui chơi giải trí cho trẻ em; Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg, ngày 12-02-2004, về việc phê duyệt chương trình ngăn ngừa, giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010; Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg, ngày 25-3-2005, về việc phê duyệt đề án “Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em tàn tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010”; Chỉ thị số 1408/2009/CT-TTg, ngày 01-9-2009, về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Trên phương diện quốc tế, Việt Nam cũng rất quan tâm, tích cực tham gia các diễn đàn bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC). Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 1991 - 2000 đã nhấn mạnh: trẻ em cần phải được coi như những công dân đặc biệt của xã hội, được Nhà nước và nhân dân chăm sóc và được dành cho những ưu tiên cũng như tạo môi trường lành mạnh để phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

Hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật vào cuộc sống


Luật BVCSGDTE đã quy định tương đối đầy đủ các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em. Luật quy định: “Trẻ em là công dân dưới 16 tuổi...; mọi trẻ em không phân biệt đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật”. Luật BVCSGDTE cũng nghiêm cấm không được: “Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi... Dụ dỗ, lừa dối, ép buộc trẻ em mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy..., hoạt động mại dâm; xâm hại tình dục trẻ em... Lạm dụng lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động” (Điều 7). Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đến lang thang phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đi lang thang trong việc tổ chức, giúp đỡ đưa trẻ em trở về với gia đình; đối với trẻ em lang thang mà không còn nơi nương tựa thì được tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em; đối với trẻ em lang thang của hộ nghèo thì được ưu tiên, giúp đỡ để xóa đói, giảm nghèo. Đối với trẻ em cùng gia đình đi lang thang thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em cùng gia đình đến lang thang có trách nhiệm yêu cầu và tạo điều kiện để gia đình lang thang định cư, ổn định cuộc sống và để trẻ em được hưởng các quyền của mình. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em lang thang được sống trong môi trường an toàn, không rơi vào tệ nạn xã hội” (Điều 55).

Sau khi Luật đi vào cuộc sống, công tác BVCSGDTE đã có chuyển biến rõ rệt cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, đạt được một số kết quả đáng khích lệ: đời sống vật chất và tinh thần của trẻ em được nâng cao; công tác phổ cập giáo dục tiểu học đạt kết quả cao; khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, các chỉ số về dinh dưỡng, sức khỏe trẻ em được cải thiện rõ rệt; có nhiều tiến bộ trong công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Ngoài ra, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học,... cũng có những điều khoản riêng liên quan đến trẻ em.

Bản thân trẻ em đi lang thang đã bị mất đi hầu hết các quyền cơ bản của mình, như không được học tập, không được chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí, không nhận được sự yêu thương, chăm sóc của gia đình và luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm hại, bị bóc lột sức lao động; khi các em rời bỏ gia đình đi lang thang các em phải tự bươn chải, tìm việc để lao động kiếm sống. Vì vậy, lao động trẻ em và trẻ em lang thang (TELT) là vấn đề chúng ta cần quan tâm, giải quyết.

Giáo dục cho trẻ em yêu lao động và tham gia lao động phù hợp với lứa tuổi của mình là một trong những nội dung được đưa vào chương trình giáo dục. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng giữa việc trẻ em bị cưỡng bức lao động với việc trẻ em tự nguyện tham gia làm những công việc phù hợp với sức khỏe và điều kiện sinh hoạt. Bộ luật Lao động của nước ta đã quy định những điều kiện để trẻ em có thể tham gia lao động, như độ tuổi lao động được quy định: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi, có khả năng lao động... Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức...; nếu là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” (Điều 3). “Thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và thỏa thuận khác với người lao động, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người lao động...; Lập sổ quản lý lao động, sổ lương và xuất trình khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu” (Điều 6). Ngoài ra, còn hàng loạt các văn bản dưới luật của các bộ, ngành hướng dẫn rất cụ thể việc thực hiện những điều luật đã quy định.

Như vậy, luật pháp và chính sách của Đảng, Nhà nước ta về lĩnh vực BVCSGDTE ngày càng phù hợp với thực tiễn công tác BVCSGDTE ở nước ta và tinh thần Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Chính sách này đã tạo hành lang pháp lý để huy động mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tích cực, chủ động tham gia vào sự nghiệp BVCSGDTE. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, luật pháp và chính sách đối với lĩnh vực BVCSGDTE luôn cần được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Thực trạng về tình trạng trẻ em lang thang và lao động trẻ em  


Trẻ em lang thang là một hiện tượng xã hội không chỉ diễn ra trong phạm vi một nơi, mà là một hiện tượng phổ biến có tính chất toàn cầu. Ở Việt Nam, hiện tượng trẻ em bỏ nhà, hoặc theo gia đình đi lang thang kiếm sống trên đường phố đã xuất hiện từ trước năm 1975. Có thể phân ra 3 nhóm như sau:

- Nhóm 1: Gồm những trẻ không có bố, mẹ và gia đình, hoặc bị gia đình bỏ rơi phải đi lang thang, sống theo nhóm, tự kiếm ăn và ngủ ngoài đường phố.

- Nhóm 2: Gồm những trẻ tự rời bỏ gia đình đi lang thang kiếm sống hằng ngày, ăn, ngủ theo nhóm tại các khu nhà trọ nhưng vẫn còn liên hệ với bố mẹ, với gia đình.

- Nhóm 3: Gồm những trẻ đi lang thang ban ngày, tối lại về với bố mẹ và gia đình, nhóm trẻ này thường ở trong những gia đình khó khăn về kinh tế các em phải đi lang thang kiếm tiền phụ giúp gia đình.

Hiện nay, số TELT thay đổi cả về số lượng, hình thức và tính chất cũng phức tạp hơn. Trẻ em lang thang xuất hiện nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các em đi lang thang kiếm sống trên đường phố với các công việc, như đánh giầy, bán báo, kẹo cao-su, bán vé số hoặc làm giúp việc gia đình, trông trẻ, làm việc trong các nhà hàng, quán bia... Đây chính là nhóm trẻ có nguy cơ bị ngược đãi, bị bạo lực, bị xâm hại và lạm dụng rất cao. Trước đây, TELT chỉ đơn thuần là trẻ em Việt Nam, thì hiện nay còn có cả đối tượng TELT là người nước ngoài (Lào, Căm-pu-chia), nhóm trẻ em này xuất hiện chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số tỉnh biên giới phía nam của Việt Nam và có nguy cơ gây mất ổn định an toàn xã hội, ảnh hưởng đến vấn đề di cư quốc tế.

Bên cạnh đó, số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (10 nhóm đối tượng theo Luật BVCSGDTE) vẫn còn 1,53 triệu, chiếm 6% so với tổng số trẻ em và chiếm 1,79% so với dân số cả nước. Nếu tính cả nhóm trẻ em nghèo (2,75 triệu), trẻ em bị bạo lực, buôn bán và tai nạn thương tích thì tổng cộng có khoảng 4,28 triệu em, chiếm 5% dân số và khoảng 18,2% so với tổng số trẻ em(2). Đa phần nhóm trẻ này vẫn gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi xã hội dành cho trẻ em. Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao trở thành TELT. Theo báo cáo của các địa phương số trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc độc hại và nguy hiểm có khoảng 25,8 nghìn (năm 2009) và có xu hướng giảm dần; nhưng trên thực tế con số này có thể còn cao hơn nhiều.

Phòng, chống, ngăn ngừa và giải quyết vấn đề LĐTE đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể, cần sự góp sức của cả xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam mức độ xử lý các đối tượng lạm dụng LĐTE và bạo hành trẻ em vẫn còn quá nhẹ, chủ yếu mới dừng lại ở việc nhắc nhở, xử phạt hành chính. Đã đến lúc cần phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật Lao động để xử lý nghiêm các cơ sở có hành vi bóc lột LĐTE và sử dụng LĐTE không đúng pháp luật. Một mặt, đề cao sức mạnh của luật pháp, trừng trị nghiêm khắc những kẻ ngược đãi, bóc lột trẻ em, bắt trẻ em làm việc quá sức trong các điều kiện độc hại; mặt khác, tạo ra những cơ hội cho trẻ em được học nghề, có thể làm việc để góp phần giảm bớt khó khăn về kinh tế cho gia đình, bảo đảm chính đời sống của các em.

Dạy nghề thay thế cho trẻ em lang thang hồi gia - một mô hình cần được nhân rộng


Hiện nay, ở nước ta có khoảng 24.000 TELT kiếm sống. Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội đã rất quan tâm, hỗ trợ về vật chất và điều kiện sinh hoạt; tạo điều kiện để các em lao động kiếm sống, giúp đỡ gia đình bằng cách làm những công việc phù hợp trong điều kiện an toàn và bảo đảm vệ sinh, với những cách làm phù hợp thực tế cuộc sống.

Mô hình dạy nghề thay thế cho TELT hồi gia là hình thức mà Dự án Hỗ trợ TELT (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) đã triển khai trong những năm qua (2009 - 2011) tại 51 xã/08 tỉnh (Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Ngãi) là một mô hình đáng quan tâm. Với mục tiêu trợ giúp cho TELT hồi gia trở về với gia đình được đến trường và được hòa nhập với cộng đồng làng/xã, Dự án đã hỗ trợ dạy nghề thay thế cho cha, mẹ, anh, chị hoặc những người trực tiếp nuôi dưỡng TELT để làm kinh tế giúp các em trở về với gia đình.

Mô hình dạy nghề thay thế được hàng nghìn người tham gia, đạt hiệu quả thiết thực. Thứ nhất, giúp cho TELT trở về với gia đình, có thể tiếp tục đi học và phụ giúp gia đình giảm bớt khó khăn về kinh tế. Thứ hai, việc học mang tính chất truyền nghề tại địa phương nên đầu tư không cao, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại, ăn ở; đối tượng học và độ tuổi được mở rộng, người nông dân có thể vừa làm những công việc đồng ruộng, vừa học và làm nghề tại gia đình nên đã thu hút được nhiều người tham gia. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải biết kết hợp giữa dạy nghề và tìm đầu ra cho các sản phẩm mới mong phát huy hiệu quả lâu dài, bền vững. Cụ thể, ở tỉnh Thanh Hóa, sau 3 tháng học nghề (năm 2010) 90% số người học đã làm ra sản phẩm đạt yêu cầu và được các doanh nghiệp ở địa phương thu mua. Thu nhập trung bình từ việc làm tranh thêu khoảng 400.000đ - 1.000.000đ/người/tháng; khâu bóng đen-ta: 450.000đ - 1.000.000đ/người/tháng; đan chao đèn xuất khẩu: 900.000đ - 1.500.000đ/người/tháng; đan chiếu cói: 400.000đ - 800.000đ/người/tháng...(3) Mức thu nhập tuy không cao, nhưng đã góp phần giảm bớt những khó khăn kinh tế cho gia đình. Điều đáng nói ở đây là do các em không còn phải rời bỏ gia đình để lang thang kiếm sống, phải đối diện với những nguy cơ mất an toàn, nên điều đó đã góp phần tạo nên sự bình ổn trong xã hội.

Có thể khẳng định, dạy nghề cho TELT hồi gia là một giải pháp tình thế hữu hiệu. Các em không bị ngược đãi, bị cưỡng bức; có thu nhập để duy trì cuộc sống; rèn luyện cho các em tính cần cù, chịu khó; phát triển kỹ năng nghề ở các em.

Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em


Một là, Nhà nước cần đẩy mạnh chính sách trợ giúp xã hội đối với trẻ em; kết hợp dạy nghề với tạo việc làm cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn; tăng cường quản lý nhà nước với việc giải quyết triệt để tình trạng sử dụng LĐTE trong những điều kiện nặng nhọc, độc hại.

Tại các địa phương chính quyền cơ sở cần có chính sách tốt nhất để các gia đình nghèo có việc làm và thu nhập ổn định; liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp trên địa bàn để tiêu thụ sản phẩm nghề làm ra, gắn liền với các điều kiện cam kết của gia đình, bảo đảm các quyền cơ bản cho trẻ em.

Hai là, Nhà nước cần có chính sách an sinh xã hội phù hợp bảo đảm các quyền cơ bản cho mọi trẻ em; sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp về bảo trợ xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; tăng chi phí hỗ trợ giáo dục dành cho trẻ em nghèo và gia đình nghèo có trẻ em học từ mẫu giáo đến các bậc phổ thông.

Ba là, tăng cường công tác truyền thông - giáo dục về Luật BVCSGDTE, Công ước quốc tế về quyền trẻ em, đặc biệt là công tác vận động những gia đình nghèo không để TELT lao động kiếm sống. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, xã hội, các hội nghề nghiệp và cộng đồng về việc phòng ngừa tình trạng sử dụng LĐTE, TELT. Đưa tiêu chí không để tình trạng sử dụng LĐTE, TELT vào nghị quyết các cấp ủy cơ sở. Tăng cường pháp chế và thực thi các chế tài xử lý nghiêm đối với các vi phạm các quyền cơ bản của trẻ em từ gia đình đến cộng đồng.

Bốn là, củng cố và tổ chức quản lý tốt các hình thức giáo dục thay thế, như “Dạy nghề thay thế”, các câu lạc bộ “Quyền trẻ em”, phát huy vai trò đoàn thanh niên tại thôn/bản… theo hướng lồng ghép với các trường phổ thông, tổ chức đoàn, hội.

Năm là, gắn trách nhiệm của gia đình trong công tác BVCSGDTE, nhưng khi gia đình không có khả năng và điều kiện thực hiện thì cộng đồng xã hội và Nhà nước có trách nhiệm giúp đỡ các gia đình thực hiện. Việc giúp đỡ này phải được thực hiện thông qua hệ thống chính sách, các chương trình nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách liên quan tới trẻ em và cần ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em có nguy cơ dễ bị tổn thương, TELT, trẻ em nghèo.

Sáu là, việc xây dựng và phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em phải được coi là ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới, thông qua việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, hệ thống tổ chức và cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em mang tính chuyên nghiệp và cấu trúc mạng lưới tổ chức cung cấp dịch vụ bảo vệ theo 3 cấp độ: phòng ngừa; can thiệp giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ; trợ giúp hòa nhập cộng đồng và tạo cơ hội phát triển./.



Quách Thị Quế
Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(Theo TCCS)

-------------------------------------------------

(1) Điều 41, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004

(2) Nguồn tổng hợp báo cáo của các địa phương (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)

(3) Nguồn tổng hợp báo cáo của Dự án hỗ trợ trẻ em lang thang (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất