Những năm qua, cùng với việc không ngừng cải tiến
chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho người lao động,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo đến việc bảo đảm an sinh xã
hội, giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có người dân vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi.
GIẢM NGHÈO VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI GIAI ĐOẠN 2011-2020
Trong
suốt hơn 75 năm qua, đặc biệt là sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước
ta luôn nhất quán quan điểm phát triển kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Việt Nam là một trong những điểm sáng của thế giới về xóa đói, giảm nghèo.
Trong giai đoạn 2016 -
2020, tỷ lệ hộ nghèo nước ta đã giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn dưới
3%, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên về đích sớm
trong thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về
giảm nghèo(1). 100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm, 80% số
thôn có điện, trên 50% số xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 100% đồng
bào dân tộc thiểu số và người nghèo có bảo hiểm y tế miễn phí. Tuy
nhiên, mặc dù là điểm sáng của thế giới về giảm nghèo nhưng công cuộc
xóa đói, giảm nghèo ở nước ta vẫn còn nhiều thách thức, như Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng nhận định: “Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự
bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao”(2). Do đó, cần phải đánh
giá những điểm chưa được trong công tác giảm nghèo, đặc biệt là công
tác giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, để trên cơ
sở đó, có những giải pháp phù hợp, nhằm đạt mục tiêu trong giai đoạn
2021 - 2026, tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5%/năm(3) như Văn kiện Đại hội XIII đã đề ra.
Trên
cơ sở đánh giá các chương trình, chính sách giảm nghèo và bảo đảm an
sinh xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn
2011 - 2020 theo 5 tiêu chí: 1) Tính kịp thời trong việc hoàn thiện, ban hành cơ chế, chính sách (văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn); 2) Tính phù hợp
của cơ chế, chính sách, dự án đã ban hành trong triển khai thực hiện
mục tiêu giảm nghèo về đối tượng thụ hưởng, đặc điểm vùng, miền (dân tộc
thiểu số, biên giới, hải đảo, an toàn khu, bãi ngang, thôn nghèo, xã
nghèo, huyện nghèo, vùng kinh tế - sinh thái,...), phù hợp với nguồn lực
và năng lực thực thi của các địa phương; 3) Tính đồng bộ và hệ thống của cơ chế, chính sách và giải pháp giảm nghèo; 4) Tính đầy đủ thể
hiện ở mức độ bố trí nguồn lực, bảo đảm đầy đủ và kịp thời nguồn lực
cho thực hiện các dự án, chính sách trong chương trình giảm nghèo; 5) Tính hiệu lực và hiệu quả; cho thấy những vấn đề sau:
Một là,
kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ thoát nghèo chủ yếu chuyển sang
hộ cận nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm không đồng đều trong các vùng của cả
nước. Tình trạng nghèo sâu, nghèo kinh niên tập trung vào đối tượng là
đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực đặc biệt khó khăn, chủ yếu ở khu vực
miền núi, vùng sâu, vùng xa, trong đó “lõi nghèo” tập trung nhiều ở khu
vực các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, nhất là khu vực miền
núi Tây Bắc(4). Đây là nhóm dân cư có tốc độ giảm nghèo chậm,
luôn đứng trước nguy cơ tái nghèo. Thực trạng này kéo dài qua nhiều năm
nhưng chưa được khắc phục triệt để.
Tỷ
lệ hộ cận nghèo giảm chậm, từ năm 2015 đến năm 2019 chỉ giảm được
0,95%, trung bình 0,19%/năm. Thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo ở
các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số chỉ tăng
được 1,2 lần, từ 15,81 triệu đồng năm 2015 lên 19 triệu đồng năm 2019
(mục tiêu của Chương trình 135 tăng lên gấp 2 lần). Tỷ lệ xã đặc biệt
khó khăn thoát khỏi tình trạng khó khăn chỉ đạt 5,66% (đạt 20% - 30%
mục tiêu). Sự thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, như
nhà ở, y tế, nước sạch và vệ sinh còn lớn(5).
Tỷ lệ hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế đạt mục tiêu, nhưng nguyên nhân chủ yếu do các địa phương (58/63 tỉnh, thành phố)(6)
sử dụng ngân sách địa phương trong việc huy động nguồn lực để hỗ trợ
đóng bảo hiểm y tế cho đối tượng thuộc hộ cận nghèo. Cơ sở vật chất,
nhân lực của các trạm y tế xã chưa đồng đều ở các vùng, miền, đặc biệt ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn, do đó chưa tạo được niềm tin của người dân
vào chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở.
Các bác sĩ khám và điều trị cho bệnh nhân tại Trung tâm Y tế huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. (Nguồn: baodantoc.vn)
Hai là,
chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều vẫn còn một số hạn
chế cần khắc phục: 1) Mức chuẩn nghèo về thu nhập chưa đáp ứng được yêu
cầu bảo đảm mức sống tối thiểu như Nghị quyết số 76/2014/QH13, ngày
24/6/2014, của Quốc hội khóa XIII, “Đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020” đặt ra; 2) Một số chỉ số đo lường chưa phù hợp gây ảnh hưởng đến việc xác định hộ nghèo ở các địa phương(7); 3) Chính phủ chưa công bố được kết quả tổng hợp toàn quốc về tình trạng thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản.
Ba là,
nguồn lực dành cho công tác giảm nghèo dàn trải trong nhiều chính sách,
có chính sách khi bố trí được nguồn lực đầu tư đã vào năm cuối của giai
đoạn thực hiện. Việc huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, người dân
còn hạn chế. Các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ
thị trường phù hợp đặc điểm vùng, miền, nhằm thu hút các doanh nghiệp
đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh tại địa bàn khó khăn, địa bàn có
đông đồng bào dân tộc thiểu số chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng.
Bốn là,
việc thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện mới chỉ dừng ở chính sách
tín dụng, các mô hình sản xuất (vốn đối ứng), hoặc cam kết thoát nghèo,
chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của các bên liên quan để có thêm
nhiều chính sách đa dạng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội địa
phương; chưa khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người
nghèo.
Năm là,
tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số học trung học phổ thông chưa cao
(63,03%); mới hỗ trợ đào tạo được khoảng trên 1,1 triệu người (14%) trên
tổng số gần 8 triệu người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động. Giai
đoạn 2016 - 2018 mới có trên 800 nghìn người dân tộc thiểu số, trong đó
có 412 nghìn lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số được đào tạo
nghề. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc bán trú chưa được quan tâm
đầu tư đúng mức; nhiều địa phương không bố trí được việc làm cho người
học cử tuyển sau khi tốt nghiệp. Công tác đào tạo cử tuyển chưa gắn với
sử dụng lao động; việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân
tộc thiểu số chưa có nhiều chuyển biến tích cực; tình trạng di dân không
theo quy hoạch ở một số địa phương chưa được giải quyết triệt để.
Sáu là,
hệ thống chính sách về giảm nghèo vẫn phức tạp, nhiều tầng nấc, khó
khăn cho việc áp dụng của cán bộ cơ sở và việc tiếp cận của người dân.
Việc rà soát, tích hợp, sửa đổi, ban hành chính sách về giảm nghèo chưa
đáp ứng yêu cầu, gây ảnh hưởng đến quá trình triển khai thời gian đầu
của chương trình. Một số chính sách chưa phù hợp, như chính sách hỗ trợ
nhà ở, chính sách đầu tư nguồn nhân lực cho người dân tộc thiểu số,
chính sách cử tuyển,... chưa gắn với sử dụng sau đào tạo và chưa phù hợp
với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, hiệu quả chưa cao. Chưa có chính
sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo giai đoạn 2016 - 2020.
Bảy là,
công tác xác nhận, quản lý đối tượng hộ nghèo, cận nghèo còn hạn chế;
còn có tình trạng đưa đối tượng không đủ điều kiện vào danh sách hộ
nghèo, hộ cận nghèo để trục lợi chính sách.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập là:
Thứ nhất,
chuẩn nghèo chưa sát với thực tế nghèo là một trong những nguyên nhân
cơ bản làm cho kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững (đa số hộ thoát
nghèo mới chỉ là thoát nghèo theo chuẩn thu nhập, mà chưa thoát khỏi
tình trạng nghèo).
Thứ hai,
mặt bằng dân trí, trình độ sản xuất hạn chế; kết cấu hạ tầng, đặc biệt
là hạ tầng giao thông của miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo còn rất khó khăn, đòi hỏi phải có nguồn lực lớn để đầu tư trong khi
ngân sách còn hạn chế. Tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt,
dịch bệnh diễn ra thường xuyên và trên diện rộng, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân.
Thứ ba,
nguồn lực thực hiện chính sách giảm nghèo phụ thuộc phần lớn vào nguồn
vốn trung ương và bị phân tán, dàn trải; việc lồng ghép nguồn lực còn
khó khăn do mỗi chương trình, dự án có các mục tiêu, cơ chế quản lý khác
nhau. Ngân sách trung ương tuy bảo đảm nguồn lực đầu tư cho Chương
trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020,
song đối với 21 chương trình mục tiêu thực hiện theo Nghị quyết số
73/NQ-CP, ngày 26/8/2016 của Chính phủ Phê duyệt chủ trương đầu tư các
chương trình mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020 thì chỉ bố trí được 53,61%
tổng số vốn đầu tư phát triển trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã
được phê duyệt.
Thứ tư,
đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cơ sở thiếu ổn định; một bộ
phận cán bộ, công chức còn thiếu kinh nghiệm, hạn chế trong nhận thức và
thực hiện chính sách; chưa có cách tiếp cận hiệu quả với vấn đề mới nảy
sinh.
Thứ năm,
nhận thức, trách nhiệm và nỗ lực vì sự nghiệp giảm nghèo bền vững ở các
ngành, các cấp còn chưa đồng đều; công tác phối hợp, thực hiện trách
nhiệm của các ngành ở Trung ương và địa phương trong xây dựng và thực
hiện các chính sách giảm nghèo có lúc còn chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ,
dẫn đến kéo dài thời gian xử lý các vấn đề liên ngành.
Thứ sáu, vẫn còn một bộ phận người dân có tư tưởng trông chờ ỷ lại, chưa quyết tâm tự vươn lên thoát nghèo.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Một
trong những định hướng quan trọng để giảm nghèo bền vững đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nhấn mạnh trong Nghị quyết số
76/2014/QH13 là: “Thúc đẩy việc kết nối phát triển kinh tế - xã hội
giữa vùng khó khăn với vùng phát triển. Thực hiện chính sách ưu đãi về
đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ thị trường phù hợp đặc điểm vùng nhằm
thu hút doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, phát
triển sản xuất, kinh doanh và kết cấu hạ tầng, đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho lao động tại chỗ, nâng cao khả năng sản xuất hàng hóa gắn
với thị trường tại các địa bàn nghèo, địa bàn khó khăn, địa bàn có đông
đồng bào dân tộc thiểu số”. Trên cơ sở định hướng đó, nhằm giảm
nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cần tập
trung triển khai một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững, bảo đảm quyền con người với 3 chức năng: Phòng ngừa - giảm thiểu - khắc phục rủi ro.
Hai là,
giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt;
quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết, bảo
đảm ổn định cuộc sống, có việc làm, giải quyết vấn đề nước sản xuất và
sinh hoạt cho người dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ nhà ở nhằm
bảo đảm nhà ở cho người dân, đặc biệt là người di cư, người dân vùng
chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu. Đa dạng hóa các loại
hình đầu tư, khuyến khích sự tham gia của người dân vào việc phát triển
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; chú trọng vùng sâu, vùng xa,
vùng bị nhiễm mặn, vùng thường xuyên hạn hán và lũ lụt, khó khăn về
nguồn nước.
Ba là,
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của
các vùng, miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị phục vụ cho thị
trường trong nước và xuất khẩu.
Bốn là,
đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phát triển giáo dục và đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du
lịch, dịch vụ; chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc
người dân tộc thiểu số; phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em; thực hiện
bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và
trẻ em; đầu tư cho phát triển đối với nhóm dân tộc thiểu số rất ít người
và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.
Giờ thực hành môn vật lý của học sinh Trường Phổ thông dân tộc nội trú Trung học cơ sở Tương Dương, tỉnh Nghệ An. (Ảnh: TTXVN)
Năm là,
tăng cường quản lý nhà nước, truyền thông, tuyên truyền, vận động trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát, đánh
giá việc tổ chức thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, tập trung một số nội dung sau: 1) Xây dựng và ban
hành tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo
trình độ phát triển, bảo đảm toàn diện, khách quan, khoa học, chính xác,
làm cơ sở xác định đối tượng, địa bàn cần ưu tiên để tập trung đầu tư
có trọng tâm, trọng điểm; 2) Tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi để phục vụ công tác dự báo, hoạch định, quản lý
thực hiện chính sách dân tộc; 3) Huy động mọi nguồn lực đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó nguồn lực nhà nước giữ vai trò
quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác. Đẩy mạnh hợp tác
quốc tế về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc; 4) Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc, về thực hiện
chính sách dân tộc, chống mọi biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc, coi đây là
cơ quan đầu mối theo dõi, tổng hợp các chính sách dân tộc; đề xuất và
tham gia thẩm định chính sách, các dự án đầu tư liên quan đến vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi; 5) Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Có chính
sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu
số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số
còn nhiều khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ
là người dân tộc thiểu số; 6) Tăng cường xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân vững chắc. Kịp thời biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu
có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số
có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 7) Đổi mới
và mở rộng chính sách tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội theo
hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất,
kinh doanh tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi./.
TS. Bùi Sĩ Lợi
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội
___________________
(1) Theo Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.71, 96.
(4)
Theo Báo cáo số 382/BC-CP, ngày 20/8/2020, của Chính phủ, năm 2015: tỷ
lệ hộ nghèo theo chuẩn mới tại miền núi Tây Bắc là 34,52%, miền núi Đông
Bắc là 20,75%, Tây Nguyên là 17,48%, tỷ lệ trung bình toàn quốc là
9,88%; đến năm 2019, tỷ hộ nghèo của miền núi Tây Bắc là 20,4%, miền núi
Đông Bắc là 9,12%, Tây Nguyên là 7,6%, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 3,75%
(5)
Mức độ thiếu hụt đa chiều năm 2019: Nhà ở (chất lượng nhà ở: 31,67%;
diện tích nhà ở: 29,64%); nước sạch và vệ sinh (nguồn nước sinh hoạt:
16,6%; nhà tiêu hợp vệ sinh: 53,58%); y tế (bảo hiểm y tế: 27,19%)
(6)
Theo Báo cáo số 1198/BC-BYT, ngày 03/8/2020, của Bộ Y tế, còn 17 tỉnh,
thành phố chưa bố trí ngân sách địa phương thực hiện hỗ trợ đầy đủ 100%
mức đóng bảo hiểm y tế còn lại cho người thuộc hộ cận nghèo, trong đó có
5 địa phương không hỗ trợ gồm: Bến Tre, Bình Định, Đà Nẵng, Quảng Bình
và Thanh Hóa
(7) Chỉ tiêu ước tính thu nhập của hộ: không căn cứ vào giá trị hay nguồn gốc tài sản.
- Chỉ tiêu giáo dục: Chưa tính đến chất lượng giáo dục của người dân và các trang thiết bị, điều kiện dạy và học để đánh giá.
-
Chỉ tiêu y tế: chưa phản ánh chất lượng cung cấp dịch vụ y tế (được bác
sĩ khám, chữa bệnh tại tuyến xã, trang thiết bị y tế khi người dân tham
gia khám, chữa bệnh...).
-
Chỉ tiêu hộ gia đình không được tiếp cận nước hợp vệ sinh, một số địa
phương tuy được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh nhưng không đủ sử dụng
cho nhu cầu sinh hoạt 12 tháng, chưa được hướng dẫn tính là thiếu hụt.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)