Theo GS.TSKH Phạm Minh Hạc, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục,
sức ép thi cử là do triết lý “hư văn, khoa cử, quan trường” còn rơi rớt
lại.
Tự tử do sức ép
PV: Những năm gần đây, cứ vào đợt công bố điểm thi ĐH, không ít thí sinh
rơi vào stress vì thi trượt. Thậm chí có những trường hợp tự tử chỉ vì
thất vọng. Ông có nhận xét gì về các trường hợp này?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Nói riêng trong trường hợp tự tử khi đi
thi không đạt yêu cầu, nếu xét dưới góc độ cá thể thì: Hành động thi
trượt mâu thuẫn với kỳ vọng, tức là sự kỳ vọng quá lớn dẫn đến thất vọng
tột cùng và dẫn đến tự tử.
Như thế là không đánh giá đúng được năng lực của mình, trước hết là
không hiểu rõ bản thân của mình. 18 tuổi, nhưng không vạch được đường
đời, cho rằng nguyện vọng, kỳ vọng vào ĐH là duy nhất. Khi không đạt
được thành ra thất vọng tột cùng. Ở đây có cả vấn đề không đánh giá đúng
mình, không đánh giá đúng ngoại cảnh, sĩ diện một cách hão huyền.
PV: Nhiều em còn chịu sức ép từ gia đình, thưa ông?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Đúng.
Có thể đấy cũng là một phản ứng tuyệt vọng do sức ép của gia đình, kiểu
như nuôi con như thế, con phải vào đại học, trở thành bác sĩ, kỹ sư...
khi không đạt được thì sức ép của gia đình dẫn đến hậu quả không hay.
PV: Ngoài gia đình, còn dư luận xã hội nữa, nhất là với những trường hợp được nhìn nhận học giỏi mà không may thi trượt.
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Chúng ta chịu ảnh hưởng từ thời Lý đến
ngày nay (hơn 10 thế kỷ) cái “hư văn, khoa cử và quan trường”. Trong xã
hội Việt Nam hiện nay, nuôi con học đến lớp 12 thì đại bộ phận theo
triết lý “Học để thi đại học”, thậm chí là vào trường nào cũng được, dù
không biết học ra để làm gì.
Học để đi thi, chỉ lấy đi thi vào ĐH là con đường gần như là duy nhất
đối với thanh niên nước nhà - Đấy là một thảm họa, lãng phí tiền, thời
gian, công sức của cả gia đình và xã hội. Đây là một sức ép rất lớn của
một triết lý hư danh trong xã hội chúng ta, chịu ảnh hưởng của nhiều thế
kỷ chịu đô hộ và phong kiến.
Hướng nghiệp kém
PV: Đành rằng việc kỳ vọng vào ĐH
là quá lớn, do triết lý “hư văn, khoa cử, quan trường” từ thời phong
kiến còn rơi rớt lại - như ông nói. Nhưng chẳng lẽ không có biện pháp
nào để giảm bớt “bi kịch”?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Phải thừa nhận công tác hướng
nghiệp ở khối THCS và THPT làm rất kém. Chúng tôi có con số của các nhà
tâm lý học ở TP.HCM: Trong tổng số thí sinh thi vào một số trường, chỉ
có 25% biết mình nên chọn nghề gì.
Thực ra, công tác hướng nghiệp gồm 4
nội dung: Mỗi học sinh phải hiểu đúng năng lực; hiểu được hứng thú của
mình; năng lực, hứng thú này có đáp ứng yêu cầu thị trường lao động
không; Hoàn cảnh kinh tế gia đình mình như thế nào? Cả 4 điều này chúng
ta không nói rõ để từng học sinh, từng gia đình hiểu. Nhà trường phải
kết hợp với gia đình hướng nghiệp cho các em.
PV: Lâu nay, làm gì có ai hướng nghiệp cho học sinh đâu, toàn các em tự tìm hiểu.
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Đó chính là một lý do dẫn đến
các trường hợp tự tử. Nhiều trường hợp thất vọng, nhưng không đến mức
quá lớn. Trường hợp quá bức xúc dẫn đến mâu thuẫn tột cùng, không có lối
thoát thì là cá biệt, nhưng cá biệt đó sinh ra từ đại thể.
Trái ngành là không tốt!
PV: Có một số sinh viên thi vào
được những trường danh giá, đòi hỏi lực học rất tốt mới thi đỗ, nhưng
trong quá trình học lại chán nản vì mọi thứ không như mình tưởng... Lúc
đó câu hỏi “dừng lại, hay đi tiếp” cũng rất đau đầu.
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Có
những em hiểu được mình, nhầm thì sửa. Tôi biết có người tốt nghiệp Đại
học Y ra mở cửa hàng gỗ và họ thích thú với công việc hiện tại. Có
những con số chúng ta không bao giờ đưa: có bao nhiêu người tốt nghiệp
Đại học Y không đi làm tại các tỉnh, mà ở lại Hà Nội, thậm chí làm việc
tại các cửa hàng.
PV: Việc học một ngành, ra làm
việc ngành khác, ông có cho rằng “kiểu gì thì có kiến thức cũng tốt;
kiến thức đó sẽ hỗ trợ cho công việc của người ta dù công việc đó trái
với ngành được đào tạo”?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Với
từng trường hợp cụ thể thì phải nghiên cứu, nhưng nói chung thì không
tốt. Ở các nước, họ tổ chức phân luồng. Như nước Đức, sau lớp 5 đã phân
luồng: đi học để ra nghề hay đi vào một trường trung học để lên ĐH.
Ở Pháp, đến lớp 7 thì học 1 năm hướng học và hướng nghiệp; tức là vẫn
học chương trình bình thường nhưng người ta gọi năm học đó là hướng học
và hướng nghiệp bởi bắt đầu từ đấy là hướng nghiệp rất rõ. Ở Anh, sau
lớp 10 là phân luồng rất rõ; em nào tiếp tục lên học lớp 11, 12 gọi là A
(phân ban hẹp để vào các trường ĐH tương ứng).
PV: Ở nước ta trước đây đã có sự phân chia từ hết lớp 9; em nào lên THPT
vào ban A thì học chủ yếu môn Toán, Lý, Hóa... Đó có phải sự phân
luồng?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Đó
là phân ban chứ không phải phân luồng. Phân luồng là luồng này đi học
nghề, luồng kia đi ĐH. Họ phân thành 2 luồng rõ rệt, thậm chí có tỷ lệ
phần trăm. Ví dụ ,ở Trung Quốc là 50:50, tức là 50% học hết THCS thì đi
học nghề, còn 50% học tiếp để vào ĐH. Có nước là 40:60, nhưng chủ yếu là
50:50.
Còn chúng ta có chủ trương phân ban, nhưng phân theo khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội; do ít người vào học khoa học xã hội
quá thì lại có một ban chung. Cuối cùng trên thực tế chương trình phân
ban đã bị hủy bỏ.
PV: Việc phân luồng như nhiều nước thực hiện, chúng ta khó thực hiện theo hay sao?
GS.TSKH Phạm Minh Hạc: Từ
năm 1996, tại Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII đã đặt ra vấn đề phân
luồng trong Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục. Nhưng từ đó đến nay
không ai thực hiện. Riêng tỉnh Vĩnh Phúc bắt đầu từ năm ngoái có chủ
trương phân luồng: Anh nào đi học nghề thì được cho tiền đi học. Hiện
nay, số trường nghề quá ít, chúng lại được đôn từ cao đẳng lên ĐH. Nhưng
đây lại là một vấn đề khác, nói thì rất dài.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện.
Chúng ta cần phổ biến rộng rãi mục
đích giáo dục, làm cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là những gia đình có
con em vừa trải qua kỳ thi vào ĐH hoặc sắp học lớp 12 nhận thức rõ: học
để thành người và thành nghề. Không phải vào ĐH là con đường tiến thân
vinh quang duy nhất. Các vị phụ huynh phải hiểu, đánh giá đúng con mình,
đừng tạo sức ép. Thứ nữa, nhà trường kết hợp với gia đình phải làm tốt
công tác hướng nghiệp, giúp các em hiểu, đánh giá được bản thân mình. Xã
hội cần những con người có đạo đức và tay nghề. Tay nghề có thể là công
nhân, kỹ sư hay nhà khoa học./.
Theo GDVN