Ngày 7/3/1944, đồng chí Tô Hiệu anh dũng hy sinh ở ngục tù Sơn La. Sau đó, ngày 29/11945, báo Cờ giải phóng đăng bài viết của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Trường Chinh (dưới bút danh Quyết Chiến) nhan đề “Gương hy sinh - Tinh thần Tô Hiệu”.
Bài viết có đoạn: Đồng chí Tô Hiệu mất đi, “giai cấp vô sản đã mất một
người lính xung phong dũng cảm. Toàn thể dân tộc đã mất một đứa con
trung thành trọn đời phụng sự cho quyền lợi Tổ quốc”(1).
Trong bài viết này, đồng chí Trường Chinh đã khái quát quá trình bắt
đầu từ chủ nghĩa yêu nước đến khi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông
Dương của đồng chí Tô Hiệu. Do hấp thu tinh thần cách mạng của anh trai
là Tô Chấn nên Tô Hiệu đã sớm nhận rõ nhiệm vụ của một người thanh niên
yêu nước, từ biệt mái trường để bước vào hoạt động cách mạng và vào Nam
để xây dựng và phát triển đảng bộ “Quốc dân” trong đó. Nhưng chẳng bao
lâu sau, anh sa lưới giặc, bị kết án 4 năm tù, đày ra Côn Đảo. Vào tù,
được sống chung với những đồng chí cộng sản, anh đã tìm thấy chân lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và mạnh dạn đứng dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, trở thành “một chiến sĩ cộng sản khuôn mẫu”.
1. Sinh năm 1912, Tô Hiệu là con trai út trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước(2) ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Mới 3 tuổi, cha đã mất, một mình mẹ(3) mướn ruộng tần tảo nuôi dạy 5 người con(4)
nhưng Tô Hiệu vẫn được mẹ cho theo học các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng ở
trường làng đến năm 11 tuổi. Tuy hoàn cảnh rất khó khăn nhưng gia đình
nhận thấy Tô Hiệu thông minh nên vẫn cố gắng cho Tô Hiệu được tiếp tục
đi học ở thị xã Hải Dương(5)
(năm 1924). Từ đây, dù mới 14 tuổi, Tô Hiệu đã bắt đầu hoạt động yêu
nước với việc tham gia vào phong trào bãi khóa đòi để tang chí sĩ Phan
Chu Trinh (năm 1926). Vì hoạt động yêu nước đó, Tô Hiệu đã bị buộc phải
thôi học.
Đây là bước chuyển đầu tiên
của Tô Hiệu ở tuổi niên thiếu. Bước chuyển này là hoàn toàn tự nhiên
của một người Việt Nam, khi được khơi dậy tinh thần yêu nước bởi truyền
thống bất khuất của dân tộc.
Được sự giúp đỡ của anh trai là Tô Tu(6), Tô Hiệu lên Hà Nội để tiếp tục theo học cao đẳng tiểu học(7).
Trong môi trường mới rộng mở và sôi động hơn của phong trào yêu nước
lúc đó ở Hà Nội, Tô Hiệu nhanh chóng tham gia các hoạt động yêu nước do
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo, như tuyên truyền, kết nạp
người vào các đoàn thể quần chúng, tham dự mít tinh, biểu tình, phát
truyền đơn nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1/5, kỷ niệm Cách mạng
Tháng Mười Nga... Với những hoạt động tích cực và sôi nổi này, năm 1929,
khi mới 17 tuổi, Tô Hiệu được kết nạp vào Xích vệ đoàn do Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên tổ chức với nhiệm vụ đi bảo vệ các cuộc mít tinh,
biểu tình, bảo vệ những cán bộ cao cấp đi diễn thuyết, chống lại bọn mật
thám, cảnh sát và lính khố xanh đến đàn áp…
Đó là bước chuyển thứ hai của Tô Hiệu, khi tự nguyện hoạt động cách mạng có tổ chức lúc bước vào tuổi thanh niên.
Những
hoạt động yêu nước của Tô Hiệu bị mật thám Pháp theo dõi ráo riết. Do
hấp thu được tinh thần cách mạng của anh là Tô Chấn và được sự động
viên, giúp đỡ của Tô Chấn, nên đầu năm 1930, Tô Hiệu đi vào Sài Gòn và
trở thành một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp với tư cách là đảng
viên của Việt Nam Quốc dân đảng, khi tổ chức này đang tiến hành những
hoạt động nhằm chống lại sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp sau sự
kiện khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái.
Thực
thi nhiệm vụ, Tô Hiệu đề nghị được chuẩn bị và thực hiện việc tiêu diệt
Toàn quyền của Pháp ở Đông Dương và Toàn quyền của Hà Lan ở Indonesia(8),
nhằm mục đích công bố tội ác phản cách mạng chống nhân dân các nước
thuộc địa của bè lũ thực dân Pháp và Hà Lan, đồng thời để “đền ơn đáp
nghĩa” cho Việt Nam Quốc dân đảng.
Có thể nói, đó là bước chuyển thứ ba
rất quyết liệt, quả cảm của Tô Hiệu khi trở thành một nhà hoạt động
chính trị với việc tham gia vào một tổ chức chính trị theo xu hướng dân
tộc chủ nghĩa, lại đang phải chịu sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền
thực dân Pháp.
Tuy
nhiên, nhiệm vụ nói trên không thành vì Tô Hiệu bị chính quyền thực dân
bắt khi đang đi vận động quyên góp để thực hiện mục đích của Việt Nam
Quốc dân đảng. Tô Hiệu bị kết án lưu đầy 4 năm ở ngục tù Côn Đảo (1930 -
1934). Tại chính nơi “địa ngục trần gian” này, được dìu dắt bởi những
nhà cách mạng cộng sản dày dặn kinh nghiệm, như Nguyễn Hới, Ngô Gia Tự,
Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Tống Văn Trân... và những đồng chí khác, nên
từ người tham gia hoạt động cho Việt Nam Quốc dân đảng, đến cuối năm
1932, Tô Hiệu đã trở thành một đảng viên cộng sản kiên cường, “người
lính xung phong dũng cảm”, “một đứa con trung thành trọn đời phụng sự
cho quyền lợi Tổ quốc”.
Đó là bước chuyển thứ tư
trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị và hành động, bước
chuyển quyết định đến toàn bộ hoạt động của người chiến sĩ cộng sản tiên
phong, để Tô Hiệu có những đóng góp rất quan trọng cho Đảng và phong
trào cách mạng nước ta sau khi thoát khỏi ngục tù Côn Đảo: Góp phần quan
trọng vào việc khôi phục Xứ ủy Bắc Kỳ (tháng 5/1937), xây dựng Liên Xứ
ủy Bắc - Trung kỳ (tháng 11/1937)(9);
đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng ở vùng duyên hải miền Bắc, nhất
là tại Hải Phòng (năm 1939); xây dựng chi bộ đảng chính thức tại nhà tù
Sơn La, biến nhà tù thành trường học cộng sản góp phần đào tạo nhiều
cán bộ lãnh đạo ưu tú cho cách mạng sau này (1940 - 1944). Hy sinh trong
lao tù đế quốc, đồng chí để lại một “tinh thần Tô Hiệu” khích lệ toàn
Đảng, toàn dân quyết tâm vùng lên đấu tranh, để giành thắng lợi trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945…
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương chủ
trì Hội thảo khoa học: “Đồng chí Tô Hiệu với cách mạng Việt Nam và quê
hương Hưng Yên” nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Tô Hiệu (1912 -
2022). (Ảnh: TTXVN)
2.
Những bước chuyển trên là một quá trình vận động và phát triển về ý
thức chính trị của Tô Hiệu, gắn chặt với tiến trình đấu tranh đòi tự do
của dân tộc ở thời điểm lịch sử đầy sóng gió đó. Chính những vận động và
phát triển trong lịch sử cách mạng của dân tộc khi ấy đã tác động mạnh
mẽ đến ý thức chính trị của Tô Hiệu; đồng thời, làm nên đặc trưng kiên
cường về chính trị của lớp các nhà cách mạng trong những năm 20 và 30
của thế kỷ XX, dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Có
thể thấy, bước chuyển thứ nhất của Tô Hiệu khi ở tuổi niên thiếu đã
tham gia vào hoạt động yêu nước là biểu thị đặc trưng rất tự nhiên, xuất
phát từ truyền thống yêu nước thương nòi, tinh thần bất khuất của con
người Việt Nam trước nạn ngoại xâm, cũng như được sự giáo dục từ truyền
thống quê hương và gia đình.
Tham
gia hoạt động cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong những năm
1927 - 1930 và sau đó tham gia vào hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng
trong năm 1930 là bước phát triển ý thức cách mạng của Tô Hiệu. Bước
phát triển đó của Tô Hiệu thể hiện bằng hành động tham gia vào thực tiễn
phong trào cách mạng nước ta đang trong bước chuyển mạnh mẽ trước những
tác động đa dạng của các trào lưu tư tưởng, mà nổi bật là hai trào lưu
căn bản: Chủ nghĩa yêu nước theo xu hướng cộng sản chủ nghĩa và xu hướng
dân tộc tư sản. Những tác động này cũng tạo ra sự chuyển biến trong suy
nghĩ và hành động của nhiều thanh niên nước ta ở thời đoạn trước khi họ
bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như khi Đảng Cộng sản Việt Nam
phải chống lại sự đàn áp dã man của thực dân Pháp.
Tô
Hiệu là một trường hợp như vậy. Khi bắt đầu tham gia hoạt động yêu nước
đồng chí còn chịu ảnh hưởng bởi cả hai trào lưu đó; nhưng cuối cùng, đã
lựa chọn đi vào dòng chủ lưu của cách mạng Việt Nam dưới ảnh hưởng của
chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng lưu ý là, Tô Hiệu đến với chủ nghĩa cộng
sản, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngay trong nơi ngục tù đế quốc,
vào lúc Đảng tuy hiện diện nhưng chưa phải là một thực thể bền vững và
thắng thế, thể hiện qua cuộc đấu tranh sinh tồn của Đảng trước sự đàn áp
khốc liệt của kẻ thù dân tộc vào thời điểm này. Hoàn cảnh khó khăn,
khắc nghiệt đó lại càng làm nổi bật lên ý nghĩa to lớn trong sự lựa chọn
của Tô Hiệu.
Ở
tuổi thanh, thiếu niên, có tinh thần yêu nước nhưng do gặp phải những
khó khăn khách quan, Tô Hiệu đã tham gia vào các tổ chức chống thực dân
xâm lược khác nhau ở thời kỳ này. Đó là một tất yếu lịch sử và sự kiện
đó không ảnh hưởng xấu và làm giảm đi, mà chỉ làm nổi bật thêm khát vọng
cứu nước, cứu dân của lớp thanh niên yêu nước Việt Nam. Khi có cơ hội,
họ sẵn sàng tham gia và hành động để thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc của mọi tổ chức yêu nước. Nhưng cũng chính từ điểm xuất phát chắc
chắn và chung nhất là chủ nghĩa yêu nước và qua hoạt động thực tiễn
phong phú, đa dạng đó, lớp người này đã tự nhận thức được đầy đủ mục
tiêu, bản chất của các trào lưu cách mạng để quyết tâm đến với chủ nghĩa
cộng sản, đến với Đảng Cộng sản do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập như
là sự lựa chọn sáng suốt tối hậu. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét
qua chân dung của một lớp người cách mạng, như Trần Huy Liệu, Tô Chấn,
Tô Gĩ, Tô Hiệu,… Từ thực tiễn hoạt động yêu nước, họ đã hướng tới, được
từng bước giác ngộ chủ nghĩa cộng sản, được đào tạo, dìu dắt và đã trở
thành những cán bộ cách mạng rất kiên trung của Đảng và dân tộc.
Trên
thực tế, không phải đến khi bị bắt và đày ải nơi ngục tù Côn Đảo, Tô
Hiệu mới hướng tới chủ nghĩa cộng sản, mà xu hướng đó đã có ngay từ khi
đồng chí bắt đầu hoạt động tại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Việc
Tô Hiệu tham gia hoạt động cho Việt Nam Quốc dân đảng theo sự dẫn dắt
của Tô Chấn(10)
chỉ làm sáng tỏ ý chí quyết tâm rất đáng trân trọng của lớp thanh niên
yêu nước lúc đó, là sẵn sàng tham gia vào các tổ chức có mục tiêu chiến
đấu cho độc lập dân tộc khi đã mất liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên. Hoạt động này của Tô Hiệu nhằm giúp Tô Chấn “đền ơn đáp
nghĩa” cho Việt Nam Quốc dân đảng, bằng việc thi hành bản án tử hình đối
với hai Toàn quyền thực dân; sau đó, họ sẽ cùng nhau xin gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương, để tiếp tục đấu tranh giải phóng quốc gia và dân
tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Quá
trình trên cho thấy hướng đi, ý chí của Tô Hiệu là nhất quán, nên khi
gặp gỡ những người cộng sản ở trong ngục tù, được sự dìu dắt và giúp đỡ
của họ, đã dẫn đến việc đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Kết quả
này chỉ là sự tiếp tục khẳng định, để công nhận chính thức về tư cách
người cộng sản đối với đồng chí xét trên phương diện tổ chức. Nhìn từ
góc độ lịch sử, chính quá trình này đã tạo nên và làm sáng tỏ phẩm chất
yêu nước của Tô Hiệu, làm ngời sáng một tinh thần yêu nước mang tên
“tinh thần Tô Hiệu”.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La Nguyễn Hữu Đông cùng
thân nhân gia đình đồng chí Tô Hiệu và các đại biểu tham quan triển lãm
về thân thế, sự nghiệp và cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tô
Hiệu tại Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La. (Ảnh: TTXVN)
3. Có
thể nói, sự chuyển biến của Tô Hiệu từ việc tham gia vào phong trào yêu
nước đến những hoạt động cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tham
gia Việt Nam Quốc dân đảng, đến gia nhập Đảng Cộng sản đã nâng tầm và
làm sâu sắc hơn giá trị tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam khi được soi sáng, định hướng bằng học thuyết cách mạng khoa học Mác
- Lênin. Xét từ góc độ lý tưởng với mục tiêu vì sự sinh tồn, giải
phóng cho cộng đồng dân tộc và con người ở những cấp độ khác nhau, thì
quá trình đó cho thấy sự phát triển từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản ở những người yêu nước chân chính là đồng trục. Bởi
vậy, ngày nay, cho dù điều kiện lịch sử có vận động với nhiều thay đổi
phức tạp, thì việc giáo dục và phát huy giá trị cốt lõi, bền vững của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là một hằng
số, không thể thiếu được trong sự nghiệp xây dựng thế hệ mai sau của
nước nhà, thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội mới vì độc lập dân tộc, vì
tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Từ
thân thế và sự nghiệp của đồng chí Tô Hiệu, chúng ta càng thấy rõ hơn,
sâu sắc hơn giá trị đặc biệt của truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương - nơi nuôi dưỡng, giáo dục và xây đắp giá trị đặc trưng là chủ
nghĩa yêu nước đối với các nhà tiền bối cách mạng trong lịch sử hiện đại
nước nhà. Điều đó càng cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường và
làm sâu sắc hơn việc giáo dục truyền thống gia đình, quê hương, đất nước
cho mỗi cá nhân; giáo dục, phát huy tinh thần yêu nước trong mỗi gia
đình, mỗi vùng quê hiện nay. Bên cạnh đó, phải xây dựng các phong trào
yêu nước, hành động cách mạng đa dạng với các mục tiêu phù hợp để tầng
lớp thanh, thiếu niên Việt Nam có điều kiện rộng rãi biểu thị tinh thần
yêu nước và đóng góp một cách thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp chung
của dân tộc theo khả năng của mình./.
PGS. TS. Phạm Hồng Chương
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
____________________
(1) Hội Khoa học lịch sử Việt Nam - Ban Liên lạc nhà tù Sơn La - Tỉnh ủy Hưng Yên - Thành ủy Hải Phòng - Tỉnh ủy Sơn La: Tinh thần Tô Hiệu, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr.30.
(2) Làng Xuân Cầu có 4 chi họ Tô. Chi họ Tô Đạo Khoan có thủy tổ Đạo Khoan.
Cụ Đạo Khoan là người phát khoa đầu tiên nên được suy tôn là thủy tổ.
Cụ đỗ Giám sinh trường Quốc Tử Giám (tương đương cử nhân) đời vua Lê
Thần Tông (năm 1620). Họ Tô này từ đó đến nay đã được 17 đời, trải qua
hơn 400 năm. Tô Hiệu thuộc đời thứ 11 của chi họ Tô Đạo Khoan.
Cụ
nội của Tô Hiệu là Đốc Nam Tô Ngọc Nữu, sinh năm 1817, đỗ cử nhân năm
1850, được bổ nhiệm các chức vụ: Giáo thụ phủ Trường Khánh, Lý Nhân; Tri
huyện Bình Lục; Giáo thụ phủ Nghĩa Hưng; Quyền Đốc học tỉnh Nam Định.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, cụ từ quan về nhà dạy học rồi kết
giao với Đốc học tỉnh Bắc Ninh là Ngô Quang Huy, người sau này cùng với
Nguyễn Thiện Thuật trở thành một lãnh đạo chủ chốt của khởi nghĩa Bãi
Sậy. Ông nội của Tô Hiệu là Tô Phát tên tự là Xuân Dục, sinh năm 1843, mất năm 1888.
(3) Cha của Tô Hiệu là Tô Y (1877 - 1915). Mẹ của Tô Hiệu là Ngô Thị Lý
(gọi theo tên chồng là bà Cả Y) là con gái của danh tướng Ngô Quang Huy.
Bà sinh năm 1877, ở thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Bắc
Ninh (nay là tỉnh Hưng Yên).
(4) Tô Tu, Tô Chấn, Tô Thị Xuyến, Tô Thị Phúc và Tô Hiệu.
(5) Thấy khả năng học tập giỏi của Tô Hiệu, bà Cả Y và anh cả Tô Tu quyết
định cho Tô Hiệu đi Hải Dương tiếp tục theo học chương trình tiểu học.
(6) Sinh năm 1901. Khi ông Tô Y mất (năm 1915), Tô Tu mới hơn 14 tuổi, phải
sang Lào làm thuê để giúp mẹ nuôi các em. Năm 1922, Tô Tu về nước và
làm thuê cho một hiệu buôn, rồi làm kế toán kiêm phiên dịch tiếng Trung
- Pháp tại Sở Quản lý văn khế Hà Nội đến năm 1945. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, Tô Tu được bầu làm Chủ tịch Ủy ban cách mạng đầu
tiên của xã Xuân Cầu, sau đó là Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến
xã kiêm cố vấn Ủy ban hành chính kháng chiến huyện Văn Giang. Từ năm
1947, Tô Tu làm trưởng phòng kế toán tài vụ cho nhiều cơ quan nội
thương, ngoại thương ở Việt Bắc và Hà Nội đến khi nghỉ hưu năm 1966.
(7) Ở Trường Trí Tri (nay là trường Nguyễn Du ở phố Hàng Quạt, Hà Nội).
(8) Khi hai Toàn quyền dự định gặp nhau ở Việt Nam.
(9) Đồng chí trở thành Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ và Thường vụ Liên Xứ ủy Bắc - Trung kỳ.
(10) Trên thực tế, Tô Chấn đã được đọc sách về chủ nghĩa Mác - Lênin, lại
được gặp gỡ và trao đổi với một số anh em đảng viên hiểu biết về lý luận
của Đảng Cộng sản Đông Dương. Điều đó đã giúp anh chuyển lập trường, từ
chủ nghĩa quốc gia chân chính tiến lên chủ nghĩa quốc tế cộng sản theo
C.Mác và V.I.Lênin.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)