Đất nước - dân tộc có chung một cội nguồn
Tiên - Rồng, có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, có đền thờ Quốc Tổ và Lăng Mộ Tổ
trên núi Nghĩa Lĩnh - Phú Thọ để hằng năm thành kính bái vọng, hành
hương trở về. Còn trong mỗi gia đình, nơi thiêng liêng nhất, đều có bàn
thờ dòng tộc, thờ những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, phù hộ cho cả
cuộc đời mình, con cháu mình.
Thực chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
của người dân Việt Nam là sự biết ơn, là lòng thành kính hướng về cội
nguồn. Ở đó, còn là sự linh thiêng, sự cộng hưởng tình yêu, niềm tin tạo
nên sức sống nội sinh của người Việt. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng
viết trong bài thơ Đất nước: Nước chúng ta / Nước những người chưa bao
giờ khuất / Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất / Những buổi ngày xưa vọng nói
về.
Hướng về Tổ tiên, về cội nguồn với một tình cảm thiêng liêng, trong
sạch nhất, là phẩm chất thấm sâu trong tâm can mỗi người Việt Nam từ
nghìn đời nay: Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng
ba. Câu ca dao ấy như một lời nhắn nhủ, một lời tâm sự, một tình cảm
thủy chung, son sắt.
Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước và mở mang đất nước
của chúng ta, đã có biết bao chiến công lẫy lừng, kiên cường bảo vệ sự
thống nhất trọn vẹn của Tổ quốc mình, và ngay cả trong những năm tháng
dài chiến tranh, chịu đau thương tột cùng của sự chia cắt, tình cảm
hướng về Tổ tiên, về cội nguồn dân tộc, về tình cảm ruột thịt Bắc - Trung - Nam không giây phút nào bị sứt mẻ, sẻ chia.
Trong công cuộc khẩn hoang, mở rộng bờ cõi đất nước, cha ông ta từ
nghìn đời nay, đã trụ vững trước mọi thế lực ngoại xâm, gìn giữ đến cùng
vùng đất Tổ - nơi cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ đã chia nhau đem con
lên rừng, xuống biển để dựng xây, mở mang đất nước. Cũng từ ấy, những
vùng đất khẩn hoang mới đã hòa nhập với vùng đất cổ để trở thành đất
nước hình chữ S hiên ngang bên bờ biển Đông: Đất nước tôi có biển
Đông / Vừa đủ mặn mồ hôi bốn ngàn năm lao động / Đất nước tôi có núi cao / Vừa
đủ trèo lên để ngắm hết lãnh thổ mình (Quê hương mặt trời vàng - Thu
Bồn).
Tổ tiên của chúng ta, cha ông của chúng ta, trong khi chịu bao thử
thách để kiên cường trên hành trình khẩn hoang mở đất, xa dần vùng đất
Tổ, chắc chắn rằng, không bao giờ quên được cội nguồn đất nước, luôn
hướng về Tổ tiên, về đất Tổ Vua Hùng. Tôi được nghe kể về một phong tục ở
phương Nam truyền lại từ thời những bậc tiền hiền đi mở ấp, lập làng.
Khi đến vòng cuối của một đời người, lúc người thân qua đời, bà con
phương nam thường để linh cữu đầu hướng về miền Bắc, hướng về nguồn cội.
Có lẽ không có tình cảm nào sâu nặng, ý nghĩa và cao đẹp đến thế trên
thế giới này. Đến như cụ Phan Thanh Giản, người có lỗi lớn với lịch sử,
ký hòa ước 1862, nhượng ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp và để mất ba
tỉnh miền Tây vào năm 1867, không chịu được nỗi đau để mất đất cho nên
tuyệt thực và uống thuốc độc tự tử, trước khi lìa đời đã hướng về miền Bắc lạy năm lạy, vì với cụ, đó không chỉ là lòng trung quân hướng về
triều đình, mà còn hướng về cội nguồn, về Tổ tiên để tạ lỗi của mình?
Nhân dân miền Trung kể về truyền thuyết, ở Quảng Bình có một di tích
lịch sử vô cùng đặc biệt là Bàu Tró, chỉ cách biển Đông nước mặn trong
gang tấc, nhưng quanh năm chứa đầy nước ngọt. Nơi đây còn nổi tiếng về
khảo cổ học với các hiện vật có niên đại hàng nghìn năm, dấu tích của
người Việt cổ tại khu vực miền Trung. Thế nhưng, trong những năm đất
nước bị chia cắt do nạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, người dân phía Nam
vẫn tìm đến Bàu Tró để uống nước ngọt bởi cho rằng đó là nguồn nước ngọt
vô tận chảy từ cội nguồn về đây - như thể hiện tình cảm thủy chung, son
sắt với đất Tổ, quê cha, với miền Bắc thân thương...
Nhìn lại lịch sử, kể từ ngày cha ông khẩn hoang, khai phá đất phương
nam, dù đã đi lâu, đi xa nơi quê cha, đất Tổ, nhưng tất cả đều luôn
hướng về cội nguồn, như một tình yêu máu thịt, tạo nên phẩm giá ẩn sâu
trong tâm thức con người phương nam: Ai về Bắc ta đi với / Thăm lại non
sông giống Lạc Hồng / Từ độ mang gươm đi mở cõi / Trời Nam thương nhớ đất
Thăng Long. Bài thơ Nhớ Bắc nổi tiếng của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ viết
từ năm 1946 tại Chiến khu Đ thể hiện sâu sắc, chân thật đến vô cùng tình
cảm thiêng liêng đó.
Nói Bắc - Nam là một nhà, là chung một cơ đồ, song
không chỉ như vậy, Bắc - Nam hòa quyện, xuyên thấm vào nhau, trong
nhau, đến mức không chỉ trong câu quan họ, lời vọng cổ, mà cả trong mùi
vị hoa trái mỗi miền: Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ / Xen nhịp từng câu
vọng cổ buồn / Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ / Mỗi lần phảng phất hương sầu
riêng (Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ).
Nỗi niềm có thể thấy qua tiếng bật
khóc nấc nghẹn từ đáy lòng một nhà thơ phương Nam khi nhớ về cội nguồn
đã làm xúc động tất cả chúng ta: Nghe quan họ đêm rằm anh bật khóc / Lời
chênh vênh uốn lượn mái chùa / Vịn câu hát anh lần về cội gốc / Chợt thấy
mình có lỗi với làng xưa (Nhớ mẹ và Làng quan họ - Trương Nam Hương).
Sức sống, lòng kiên cường, sự kiên trung, thủy chung của người dân
đất Việt là những phẩm giá tuyệt vời được hun đúc từ những đau thương,
thử thách qua nghìn đời dựng xây và bảo vệ sự trọn vẹn của Tổ quốc, vừa
có sức mạnh được nhân lên từ tình yêu hướng về quê hương, về cội nguồn
thiêng liêng. Như ở Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc đã có được sự chịu
đựng và sức mạnh không gì cản phá nổi trong những năm dài chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, cũng bắt nguồn từ tình yêu đó: Mẹ hỏi cây kơ-nia / Rễ
mày uống nước đâu? / Uống nước nguồn miền Bắc (Bóng cây kơ-nia - Ngọc
Anh). Và ở Nam Bộ, những năm chống Mỹ, cứu nước, một hình tượng sáng
ngời, tượng trưng cho tình yêu vô bờ, cho sức mạnh vô song của đồng bào
và chiến sĩ miền Nam là các đền thờ Bác Hồ. Những ngôi đền đơn sơ ấy mãi
mãi là biểu tượng vĩnh hằng cho sự kiên cường, thủy chung, son sắt của
đồng bào đối với Bác Hồ và đối với sự thống nhất, trọn vẹn của Tổ quốc
ta.
Sự thống nhất trọn vẹn ấy không phải tự nhiên mà có. Bao thế hệ, bao
xương máu, bao sự hy sinh từ nghìn năm nay để bảo vệ. Các thế hệ đi
trước và mãi mãi những thế hệ sau này sẽ luôn ghi nhớ lời thề sắt son
giành độc lập, thống nhất và bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trong những năm
tháng chiến tranh khốc liệt và cho đến tận bây giờ. Chỉ lấy một thí dụ
để chứng minh, Quảng Trị với hơn sáu mươi vạn dân mà bao bọc khoảng
tám vạn liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất
đất nước! Không thể lãng quên, không bao giờ được quên lãng những xương
máu hy sinh quên mình của lớp lớp thế hệ người Việt để có được một Tổ
quốc trọn vẹn.
Mãi mãi hướng về cội nguồn, biết ơn Tổ tiên, cha ông đã dựng xây nên
đất nước này để nhân lên trong mỗi người chúng ta tình yêu, sự kiên
trung và sức mạnh vì sự vững bền và cường thịnh của Tổ quốc ta, hôm nay
và mai sau./.