Biển đảo không chỉ là không gian sinh tồn, là chủ
quyền muôn đời của dân tộc Việt Nam mà còn là “hành lang” để người Việt
truyền bá văn hóa của mình ra bên ngoài và tiếp nhận văn hóa từ bên
ngoài vào Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia biển, với hơn 3.260km bờ biển
và gần 3.000 hòn đảo lớn nhỏ tọa lạc trong một không gian biển
rộng lớn. Không chỉ có một không gian biển rộng lớn, Việt Nam còn ở
vào một vị trí đắc địa khi nằm cạnh các luồng hải thương quan
trọng của thế giới, từ thời cổ đại đến ngày nay. Vì thế, không gian
biển Việt Nam không chỉ là môi trường sống mà còn là mạch
nguồn giao lưu chính trị, kinh tế và văn hóa với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới.
Xét trên khía cạnh “truyền bá văn hóa”, biển đảo chính
là “đường dẫn” để văn hóa Việt Nam “nối thông” với thế giới bên ngoài và
lưu lại những dấu ấn và ảnh hưởng mạnh mẽ ở những nơi mà văn hóa Việt
“cập bến”. Trống đồng Đông Sơn và đồ gốm Việt chính là những “sứ giả”
xuất sắc trong hành trình truyền bá văn hóa Việt này.
Trống đồng là biểu tượng của những thành tựu về kỹ
thuật, kinh tế và văn hóa của cư dân Việt cổ sống vào thời đại kim khí,
mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn. Trống đồng cũng là biểu tượng của một
nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta: nhà nước của các vua
Hùng. Chính vì thế, trống đồng đã trở thành một biểu tượng của văn hóa
Việt, trở thành “linh vật của dân Giao Chỉ” như ghi nhận của Hậu Hán
thư.
Tuy nhiên, trống đồng không chỉ hiện diện trên lãnh thổ
Việt Nam, mà còn được phát hiện ở phía nam Trung Hoa, ở Nhật Bản và một
số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như Lào, Myanmar, Thái Lan,
Malaysia, Philippines, Indonesia… Những phát hiện khảo cổ học ở Đông Nam
Á liên quan đến trống đồng trong những năm qua cho thấy những dòng sông
và những tuyến giao thương đường bộ xuyên quốc gia chính là những lộ
trình để trống đồng Việt thâm nhập vào các quốc gia Đông Nam Á lục địa,
trong khi đường biển là con đường duy nhất để trống đồng Việt “cập bến”
Nhật Bản và các nước Đông Nam Á hải đảo.
Những trống đồng Đông Sơn phát hiện trong các di chỉ ở
vùng cận duyên, vốn là những cảng thị cổ, ở Philippines, Malaysia và
Indonesia là những bằng chứng sống động cho điều này. Đặc biệt, những
trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Indonesia là những trống đồng có kiểu
dáng đẹp nhất, hoa văn tinh xảo nhất và kích thước lớn nhất trong di sản
trống đồng Đông Sơn. Nhiều nhà dân tộc học và văn hóa học đã xác quyết
hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn chính là hình mẫu của kiểu nhà
mái cong và là totem của nhiều tộc người sống trong vòng cung Thái Bình
Dương, điển hình là cư dân vùng Batak và vùng Tongkonan ở Indonesia.
Thậm chí, nhà dân tộc học người Áo Robert Von Heine
Geldern (1885-1968), khi nghiên cứu về những điểm tương đồng trong văn
hóa của một số dân tộc ở châu Mỹ với văn hóa của cư dân Đông Sơn, đã cho
rằng những cư dân đi biển ở Đông Nam Á đã mang văn hóa Đông Sơn tới
châu Mỹ trước khi Christopher Columbus đặt chân đến vùng đất này.
Sau trống đồng trong thời Việt cổ chính là đồ gốm trong
thời đại đại thương mại hàng hải (thế kỷ 16-17) của thế giới. Sự kiện
Christopher Columbus đặt chân đến châu Mỹ vào năm 1492 đã đưa chủ nghĩa
tư bản vượt khỏi phạm vi châu Âu và tạo ra một cục diện thương mại mới
trong kỷ nguyên đại hàng hải của nhân loại.
Quá trình tìm kiếm thị trường và nguồn hàng hóa mới cho
thị trường châu Âu, đặc biệt là hàng gia vị, tơ lụa, đồ gốm sứ... của
các quốc gia ở bờ tây Cựu lục địa như Bồ Ðào Nha, Hà Lan, Anh..., đã dẫn
đến việc hình thành các con đường tơ lụa, con đường chè, con đường gốm
sứ, con đường hồ tiêu... xuyên qua Trung Á, Thái Bình Dương, Ấn Ðộ
Dương, Ðịa Trung Hải, nối liền các quốc gia Ả Rập, các nước Ðông Á và
Ðông Nam Á với châu Âu.
Trong thời kỳ này có một sự kiện đáng chú ý, đó là lệnh
cấm vận hàng hải do triều Minh ban hành từ năm 1371 đến năm 1567 đã
khiến một số mặt hàng thông thương truyền thống giữa Trung Hoa với Nhật
Bản và một số nước phương Tây như tơ lụa, gốm sứ... bị cấm vận. Do đó,
thương thuyền của Nhật Bản và các nước phương Tây phải tìm mua những mặt
hàng thay thế ở các nước khác như Việt Nam, Ấn Ðộ, Xiêm La, hoặc dùng
hải cảng của các nước này để trung chuyển hàng hóa giữa Nhật Bản và
Trung Hoa. Ðiều này đã khiến các cảng thị ở miền Trung Việt Nam như
Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn... trở thành những nơi “trung chuyển” hàng
hóa trong vùng biển tây nam Thái Bình Dương và là mắt xích quan trọng
trong mạng lưới hải thương từ Á sang Âu và ngược lại.
Thực tế, việc “bế môn tỏa cảng” của Trung Quốc trong
thời kỳ này đã tạo điều kiện cho đồ gốm Việt Nam từ các trung tâm gốm ở
Bắc bộ và Bắc Trung bộ “vượt biển” đi đến các nước trong khu vực Đông
Nam Á và Nhật Bản. Một học giả Nhật Bản khác là giáo sư Hasebe Gakuji
cho biết “kỹ thuật sản xuất đồ gốm ở Nhật Bản vào thế kỷ 14 còn kém xa
so với kỹ thuật Việt Nam”.
Vì thế, cho đến đầu thế kỷ 16, người Nhật vẫn nhập khẩu
nhiều đồ gốm sứ Việt Nam, trong đó ngoài nhu cầu sử dụng còn có mục
đích tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật làm gốm sứ của người Việt Nam. Vì chưa
sản xuất được gốm sứ chất lượng cao nên các tàu buôn Nhật Bản đã mua
nhiều sành sứ từ Trung Quốc và Việt Nam.
Nhiều thương nhân người Nhật đã tìm mua những đồ gốm
Việt Nam để sử dụng trong nghi thức trà đạo. Và con đường để du nhập đồ
gốm Việt Nam vào Nhật Bản chính là tuyến hải thương xuyên biển Đông
trong thời kỳ thương mại shuinsen (châu ấn thuyền) do Mạc phủ Tokugawa
Ieyasu ban hành và thực thi từ năm 1602 đến năm 1635.
Đó chính là lý do giải thích về sự hiện diện của những
món đồ gốm Việt Nam hoàn hảo nhất, toàn mỹ nhất trong các bảo tàng hàng
đầu ở Nhật Bản như: Bảo tàng Quốc gia Fukuoka, Bảo tàng Quốc gia Tokyo,
Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa ở Nagoya, Bảo tàng Machida ở Tokyo.
Vậy là biển đảo không chỉ đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo lập không gian sinh tồn, hình thành nền văn hóa
biển và xác lập chủ quyền quốc gia, mà còn là con đường để truyền
bá văn hóa Việt Nam ra thế giới bên ngoài và là cửa ngỏ để Việt Nam tiếp
nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bảo vệ chủ quyền biển đảo còn là
để bảo vệ hành lang tiếp nhận và trao truyền văn hóa ấy.