ĐỊNH DẠNG ĐẶC TRƯNG CÁC LOẠI NGUỒN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Nguồn
lực là tất cả các “yếu tố đầu vào” sẵn sàng đưa vào sử dụng hoặc dự trữ
để phục vụ sản xuất của một quốc gia, địa phương, doanh nghiệp, gia
đình hoặc cá nhân. Theo phương thức tồn tại, có nguồn lực vật thể và
nguồn lực phi vật thể; theo tính chất có nguồn lực tự nhiên (vị trí địa
lý, tài nguyên thiên nhiên), hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực xã hội
- nhân văn (tri thức, lao động, di sản văn hóa, thông tin, khoa học -
công nghệ...), nguồn lực tài chính; theo chủ sở hữu có nguồn lực nhà
nước, nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội.
Toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư khiến quan niệm về nguồn lực có nhiều thay đổi. Trong
khi các nguồn lực truyền thống ngày càng cạn kiệt thì con người lại phát
hiện, phát minh những nguồn lực mới không chỉ bù đắp những thiếu hụt,
bổ sung nhu cầu phát triển, mà còn mang tính “xanh”, “sạch”, thân thiện
môi trường, như nguồn năng lượng tái tạo, nguồn lực tri thức, nguồn lực
thông tin... Nhờ thành tựu khoa học - công nghệ mà liên kết, “dữ liệu
hóa” khiến thông tin trở thành nguồn lực quan trọng; làm cho phế thải có
thể tái chế, trở thành nguồn lực “đầu vào” cho sản xuất gắn với nguyên
lý tuần hoàn; biến những nơi có tiềm năng năng lượng gió, năng lượng bức
xạ nhiệt mặt trời có cơ hội phát triển các ngành năng lượng tái tạo.
Tri thức ngày càng nổi lên trở thành nguồn lực quan trọng bậc nhất trong
nền kinh tế tri thức, đẩy các nguồn lực khác xuống hàng thứ yếu, làm
đảo lộn vai trò giữa nguồn lực vô hình và hữu hình, giữa sở hữu giá trị
và sở hữu hiện vật. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng được
“nguồn lực hóa” phục vụ cho các ngành kinh tế dựa vào “yếu tố đầu vào”
là giá trị văn hóa, như kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa...
Nguồn
lực có tính giới hạn, tính cạnh tranh và tính động. Nguồn lực tự nhiên
truyền thống ngày càng khan hiếm, do không có nhiều khả năng tái tạo
trước nhu cầu khai thác, sử dụng theo cấp số nhân của con người, nhất là
đất đai, năng lượng hóa thạch... Tính khan hiếm đặt ra yêu cầu phải sử
dụng nguồn lực không tái tạo một cách tiết kiệm, hiệu quả, bảo đảm hài
hòa giữa khai thác phục vụ trước mắt và dự trữ, bồi đắp vì sự phát triển
bền vững trong tương lai. Tính cạnh tranh nguồn lực ngày càng khốc liệt
trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, không chỉ giữa các chủ thể
trong từng quốc gia, mà kể cả giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
Không có cuộc chiến tranh, xung đột nào giữa các quốc gia nằm ngoài mục
đích chiếm hữu, kiểm soát nguồn lực, như tranh giành lãnh thổ, mở rộng
thị trường, kiểm soát các vị trí địa chiến lược, giành giật dầu mỏ,
nguồn nước ngọt... Ngày nay, cạnh tranh chiến lược về khoa học, công
nghệ, thu hút nhân tài trở nên phổ biến trong quan hệ quốc tế cũng không
nằm ngoài tranh giành nguồn lực. Tính “động” thể hiện ở khả năng dịch
chuyển của nguồn lực từ chỗ sản xuất kém hiệu quả đến chỗ sản xuất hiệu
quả hơn, khiến các quốc gia luôn tìm cách cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh để nâng cao sức hấp dẫn thu hút nguồn lực, còn các nhà đầu tư
luôn tìm bến đỗ an toàn, hiệu quả, sinh lời cao cho tài sản của mình.
Tính “động” của nguồn lực còn thể hiện ở khả năng chuyển hóa, tái tạo
nguồn lực, nhất là nguồn lực tri thức, thông tin, nguồn lực văn hóa...
Nguồn
lực có vai trò to lớn đối với toàn nhân loại, từng quốc gia - dân tộc
và mỗi chủ thể sản xuất, kinh doanh. Đất đai là tài sản quốc gia, là tư
liệu sản xuất quan trọng bậc nhất, là không gian tổ chức đời sống xã hội
con người. Từ đất mà sản xuất ra của cải vật chất, được sử dụng để dựng
nhà cửa, lập thành cộng đồng, tổ chức đời sống dân sinh, rồi khi chết
con người cũng trở về với đất. Đất không chỉ là nguồn lực thuần túy, mà
một khi mang dấu ấn bàn tay, khối óc, mồ hôi, xương máu của con người
thì lại chứa đựng giá trị văn hóa, vì vậy, đất thường được thiêng hóa
(Đất Mẹ, Thổ Thần...). Khoáng sản là nguyên, nhiên liệu đầu vào cho
nhiều ngành sản xuất vật chất, kể cả sản xuất vật phẩm văn hóa. Tài
chính là nguồn lực không thể thiếu cho mọi ngành sản xuất, giống như máu
đối với cơ thể sống của con người. Thông tin được “dữ liệu hóa” trở
thành một loại nguồn lực đặc biệt quan trọng, không chỉ đối với từng cá
nhân, doanh nghiệp, mà cả với quốc gia. Con người là nguồn lực quan
trọng nhất, bởi thông qua con người thì các nguồn lực khác từ “tiềm
năng” mới biến thành “động năng”, được khai thác, sử dụng hiệu quả phục
vụ cho phát triển. Tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng
nhất cho đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển
đất nước trong giai đoạn mới. Nguồn lực tri thức là vô tận, nếu biết
chăm lo phát triển thì giá trị ngày càng tăng thêm, không bị cạn kiệt
như các nguồn lực khác. Văn hóa cũng là một loại nguồn lực gắn với con
người, với nền văn hóa dân tộc, chứa đựng ở cả loại hình văn hóa vật thể
và phi vật thể. Nguồn lực văn hóa là một loại nguồn lực xã hội - nhân
văn, càng khai thác thì giá trị càng tăng thêm, như tinh thần yêu nước,
khát vọng cống hiến, lý tưởng dấn thân, tinh thần liêm chính... Nếu như
các loại nguồn lực khác chỉ tạo động lực phát triển thì nguồn lực văn
hóa còn mang thêm chức năng điều tiết sự phát triển - bản chất sâu xa là
lấy phát triển dựa trên thúc đẩy lợi ích và phát triển dựa trên định
hướng giá trị.
Phát
triển văn hóa cần đến cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài.
Nguồn lực bên ngoài có thể thuộc sở hữu các nhà nước, các định chế quốc
tế, các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân, kể cả
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nguồn lực thuộc sở hữu các nhà
nước, các định chế quốc tế thường là các khoản viện trợ hoàn lại hoặc
không hoàn lại gắn với công nghệ, nhân lực thường dùng để phục chế, bảo
tồn các di sản văn hóa. Nguồn lực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thường hướng vào phát triển các chuỗi sản phẩm du lịch, các
ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, các nền tảng kỹ thuật
số gắn với nhân lực chuyên biệt, công nghệ của các ngành này. Hợp tác
với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ nguồn lực, trình độ công
nghệ, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa là một xu
hướng lớn hiện nay, nhưng bản thân các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường
xuyên tìm cách trốn thuế, đặc biệt là khi tham gia trên thị trường kỹ
thuật số. Nguồn lực các tổ chức phi chính phủ và cá nhân rất phong phú,
đa dạng, thường tài trợ thông qua các quỹ, góp phần không nhỏ vào bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa, nhất là thúc đẩy đa dạng văn hóa, bảo
vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa địa phương.
Sức
mạnh của nguồn lực cho phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới
dựa trên cơ sở phát huy đầy đủ cả nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc
tế, nguồn lực nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, tất cả cùng kết nối,
tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Đại sứ các nước tại Việt Nam trải nghiệm tết xứ Đoài. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
LỢI THẾ VÀ GIỚI HẠN TỪNG LOẠI NGUỒN LỰC NHÀ NƯỚC, NGUỒN LỰC DOANH NGHIỆP VÀ NGUỒN LỰC XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Nguồn lực nhà nước
có nhiều loại, như đất đai và các tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng
sản, nước), tài chính và tài sản công, nhân lực, khoa học - công nghệ,
thông tin. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý, là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho đầu tư
phát triển văn hóa, nhất là mặt bằng xây dựng các thiết chế văn hóa,
không gian công cộng. Đặc trưng nền kinh tế chuyển đổi khiến nước ta còn
duy trì quy mô lớn các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn
hóa, như hãng phim, rạp hát, đơn vị biểu diễn nghệ thuật, trường đào tạo
văn hóa, nghệ thuật,... mà ở đó đất đai và bất động sản trên đất đều là
tài sản công. Tài chính công là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho phát
triển văn hóa, gồm chi đầu tư phát triển, chi cho sự nghiệp có tính đầu
tư và chi thường xuyên. Nhân lực khu vực công bao gồm các nhà lãnh đạo,
quản lý, đội ngũ sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và người lao động tại các
đơn vị sự nghiệp công lập (đoàn nghệ thuật biểu diễn, trường văn hóa
nghệ thuật, hãng phim, rạp hát...). Các nhà lãnh đạo, quản lý có tư duy
đúng về phát triển dựa trên văn hóa sẽ thúc đẩy phát triển văn hóa trong
chính trị, đồng thời khi xây dựng bất cứ chính sách nào cũng tính toán
đầy đủ chiều cạnh văn hóa khả năng tham dự của văn hóa vào phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, đối ngoại. Văn nghệ sĩ,
diễn viên, ca sĩ trong các đơn vị sự nghiệp công lập được chăm lo phát
triển toàn diện sẽ là lực lượng nòng cốt sáng tạo các sản phẩm văn hóa,
nghệ thuật có giá trị. Người lao động khu vực công một khi thấm sâu văn
hóa công sở, đạo đức nghề nghiệp sẽ là nhân tố quan trọng hàng đầu xây
dựng văn hóa công vụ, lối sống văn minh, thúc đẩy liêm chính nghề
nghiệp. Dịch chuyển nhân lực giữa khu vực công và khu vực tư trong nền
kinh tế thị trường, hoặc hình thái “chân trong”, “chân ngoài” của các
nghệ sĩ, diễn viên, ca sĩ... đang làm “mờ đi” tính chất công hay tư.
Thông tin được “dữ liệu hóa”, “số hóa” trong lĩnh vực văn hóa cũng là
một lợi thế của Nhà nước được khai thác, sử dụng để phục vụ cho phát
triển văn hóa, nhất là quảng bá văn hóa và phát triển du lịch. Khoa học -
công nghệ ngày càng trở thành nguồn lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất,
kinh doanh và quản lý gắn với vai trò đầu tư nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao công nghệ của Nhà nước. Trong đó, khoa học - công nghệ phục
vụ phát triển văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng, như công nghệ trên
các lĩnh vực truyền thông, văn hóa giải trí, du lịch; hay khoa học xã
hội - nhân văn có nhiệm vụ nghiên cứu về văn hóa và khả năng “nguồn lực
hóa”, khai thác, sử dụng, phát huy các giá trị văn hóa phục vụ cho mọi
mặt đời sống.
Nguồn lực nhà nước chỉ đạt được vai trò, sức mạnh khi đầu tư đạt ngưỡng,
mang tính tập trung, đủ năng lực dẫn dắt, thu hút, lôi kéo nguồn lực
doanh nghiệp và nguồn lực xã hội, tất cả cùng kết nối, tạo nên sức cộng
hưởng cho phát triển văn hóa. Nguồn lực nhà nước đầu tư vào những khâu,
những hạng mục mà tư nhân không làm hoặc chưa làm. Xác định đầu tư nhà
nước vào đâu, đạt ngưỡng ra sao, phương thức như thế nào có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng cho phát triển văn hóa. Đầu tư tràn lan, không đúng trọng
tâm, trọng điểm, không có khả năng kết nối, lôi cuốn tư nhân tham gia
thì coi như đầu tư kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò của đầu tư
công. Chính sách tài khóa và chính sách đất đai là hai công cụ vĩ mô
quan trọng nhất mà Nhà nước sử dụng để huy động, phân bổ, sử dụng nguồn
lực tài chính công (thuế, phí, lệ phí; chi đầu tư công phát triển; chi
sự nghiệp có tính đầu tư; chi thường xuyên) và nguồn lực đất đai. Nếu
muốn khuyến khích phát triển lĩnh vực nào thì Nhà nước hướng đầu tư
nguồn lực tài chính tập trung vào lĩnh vực đó, gồm cả đầu tư phát triển
và chi thường xuyên, thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ
phí; dùng ngân sách chi trả lương hoặc hỗ trợ cho nhân viên các đơn vị
cung ứng các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mà tư nhân không làm, nhất là
các lĩnh vực văn hóa mang tính hàng hóa công, như nghệ thuật truyền
thống, công tác tư tưởng, định hướng giá trị đạo đức, thẩm mỹ... Nhà
nước cũng có thể hỗ trợ phát triển văn hóa bằng miễn thuế đất khi xây
dựng các công trình mang lại phúc lợi phi thu nhập cho cộng đồng, như
thiết chế văn hóa, thể thao, công viên...; xây dựng cơ sở dữ liệu số
ngành văn hóa một cách thống nhất, chia sẻ các dữ liệu đó phục vụ hoạt
động quản lý và phát triển văn hóa, nhất là quảng bá và phát triển du
lịch; đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao kết quả
nghiên cứu để ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, nguồn lực
nhà nước cũng có nhược điểm là dễ bị lãng phí, phân bổ không hiệu quả.
Vì vậy, vận dụng nguyên tắc thị trường vào phân bổ, sử dụng nguồn lực nhà nước cần được chú ý,
như cơ chế đặt hàng theo số lượng và định mức kỹ thuật, thúc đẩy cạnh
tranh trong khu vực công, hỗ trợ cho đối tượng thụ hưởng không phân biệt
khu vực công hay khu vực tư, hạn chế hỗ trợ cả gói cho đơn vị sự nghiệp
công lập để tránh tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại, không tìm cách cải thiện
chất lượng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Hỗ trợ của Nhà nước cho
phát triển văn hóa không chỉ giới hạn trong khu vực công, mà bao hàm cả
khu vực ngoài nhà nước, nhất là các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức cộng
đồng, như miễn thuế đất, hỗ trợ đào tạo nhân lực, chia sẻ dữ liệu số,
đấu thầu cạnh tranh các gói dịch vụ sử dụng ngân sách bảo đảm quyền tiếp
cận của mọi chủ thể.
Nguồn
lực nhà nước có hạn chế là bị chế định bởi những quy định hành chính,
triển khai chậm, dễ thất thoát, lãng phí trong đầu tư nếu kiểm soát
không chặt chẽ. Dịch vụ văn hóa miễn phí là một loại phúc lợi văn hóa dễ
sử dụng lãng phí, ít ràng buộc trách nhiệm của người tiêu dùng. Phí, lệ
phí được áp dụng có tác dụng nâng cao trách nhiệm của người tiêu dùng
các dịch vụ văn hóa công cộng. Các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà
nước chăm lo toàn phần từ chi trả lương, kinh phí đầu tư, định hướng
hoạt động... thường thiếu năng động, sáng tạo, thậm chí trông chờ, ỷ
lại. Khắc phục hạn chế này đòi hỏi phải tăng tính cạnh tranh trong khu
vực công, gia tăng cơ chế đặt hàng, hỗ trợ trực tiếp đối tượng thụ
hưởng, áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp vào hoạt động cung
ứng dịch vụ. Khi tiền lương, thu nhập giữa khu vực tư với khu vực công
quá chênh lệch, môi trường làm việc trong lĩnh vực văn hóa đòi hỏi tính
tự do, dân chủ rất cao, thì dịch chuyển nhân lực từ khu vực công sang
khu vực tư đặt ra những yêu cầu mới cao hơn về cải cách khu vực công.
Nguồn lực nhà nước luôn đứng trước thách thức bị sử dụng không hiệu quả,
lãng phí, thiếu trách nhiệm và tính giới hạn trước nhu cầu ngày càng
lớn. Áp dụng nguyên tắc thị trường vào phân bổ nguồn lực nhà nước là
cách thức góp phần nâng cao trách nhiệm sử dụng nguồn lực. Huy động
nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội vào phát triển văn hóa có ý
nghĩa bổ sung tính giới hạn, bù đắp thiếu hụt của nguồn lực nhà nước.
Mỗi loại nguồn lực có đặc điểm, vai trò riêng, nhưng khi được kết nối sẽ
tạo nên sức mạnh cộng hưởng cho phát triển văn hóa.
Nguồn lực doanh nghiệp
khu vực tư nhân bao gồm vốn, tài sản, nhân lực, khoa học - công nghệ...
Nguồn lực doanh nghiệp khu vực tư nhân bao giờ cũng hướng tới mục tiêu
sinh lời, tối đa hóa lợi nhuận, phân bổ theo cơ chế thị trường nên
thường đạt hiệu quả kinh tế cao. Tối đa hóa lợi nhuận khiến nhà đầu tư
luôn phải tính toán hiệu quả sử dụng nguồn lực, bảo đảm chi phí bỏ ra
thấp nhất mà khả năng sinh lời cao nhất. Khu vực doanh nghiệp tư nhân có
điều kiện tiếp cận, sử dụng các công cụ thị trường (phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, vay nợ nước ngoài...) để huy động nguồn lực đầu tư phát
triển mà ít bị hạn chế các điều kiện ngặt nghèo như khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Nguồn nhân lực khu vực doanh nghiệp tư nhân bao giờ
cũng mang tính năng động cao hơn khu vực nhà nước khi người sử dụng lao
động có quyền đưa ra các mức thưởng, phạt, tuyển chọn, sa thải nhân
viên,... tạo động lực cho phát triển. Tri thức quản lý, quản trị của
doanh nghiệp là nguồn lực quyết định đến khả năng phát triển của doanh
nghiệp khi đưa ra các quyết định, phương án sản xuất, kinh doanh đúng
đắn, hiệu quả. Tri thức của người lao động trong doanh nghiệp liên quan
đến khả năng nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để hạ
giá thành sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của
sản phẩm.
Doanh
nghiệp tham gia kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa không chỉ cần vốn,
đất đai, mà còn cần đến tri thức khoa học, năng lực đổi mới sáng tạo để
tạo ra các sản phẩm độc đáo, khác biệt, có giá trị gia tăng cao, đặc
biệt là các ngành kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa, như thiết kế
thời trang, phần mềm các trò chơi giải trí điện tử, phần mềm dữ liệu số
ngành văn hóa, công nghệ truyền thông, các sản phẩm công nghiệp thực
phẩm chuyển tải bản sắc văn hóa dân tộc, tài nguyên bản địa (như sản
phẩm OCOP - mỗi xã, phường một sản phẩm)... Một lợi thế của nhân lực
trong doanh nghiệp văn hóa chính là môi trường tự do, cộng với khả năng
thỏa mãn lợi ích của người sử dụng lao động, nên có thể giải phóng mọi
năng lực nội sinh để sáng tạo các sản phẩm văn hóa có giá trị. Doanh
nghiệp khu vực tư nhân nước ngoài có nhiều lợi thế không chỉ về vốn, mà
cả nhân lực, khoa học - công nghệ cho phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa, chuỗi sản phẩm du lịch, ngành công nghiệp thực phẩm đáp ứng nhu
cầu của cư dân có yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo.
Nguồn
lực doanh nghiệp khu vực tư nhân có hạn chế là chỉ chu chuyển, phân bổ
đến chỗ có khả năng sinh lời, không đầu tư vào hàng hóa và dịch vụ công
cộng, dù đây là những hàng hóa rất cần thiết cho phát triển xã hội. Thậm
chí, vì tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp khu vực tư nhân sẵn
sàng hy sinh lợi ích công cộng, như gây ô nhiễm môi trường, sản xuất
các sản phẩm độc hại ảnh hưởng đến an ninh văn hóa, an toàn xã hội, đi
ngược với thuần phong mỹ tục, đạo đức, ảnh hưởng đến sức khỏe của con
người. Nguồn lực doanh nghiệp vận hành theo thị trường, thường có xu
hướng độc quyền, triệt tiêu tự do cạnh tranh, làm suy giảm hiệu lực của
cơ chế thị trường. Doanh nghiệp khu vực tư nhân nước ngoài hoạt động
trên nền tảng xuyên biên giới thu được lợi nhuận lớn từ thị trường số
của Việt Nam, nhưng lại thường trốn thuế. Phát triển văn hóa luôn cần
đến các doanh nghiệp không chỉ có nguồn vốn, mà cả trách nhiệm xã hội,
hiểu biết văn hóa, đam mê nghề nghiệp để kinh doanh các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa một cách có đạo đức, kết hợp giữa nguyên tắc thị trường và
định hướng giá trị. Thiếu hụt của doanh nghiệp tư nhân hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta hiện nay không chỉ nằm ở nguồn lực vốn,
công nghệ, mà quan trọng hơn là thiếu những người vừa có tư duy doanh
nghiệp, vừa có tố chất kinh doanh lĩnh vực văn hóa (đam mê văn hóa,
nghệ thuật, hiểu nghề, có tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc, biết
định hướng giá trị văn hóa)... Thiếu vốn có thể vay, thiếu công nghệ có
thể nhập khẩu, thiếu tư duy doanh nghiệp có thể thuê, nhưng thiếu hiểu
biết văn hóa, đam mê nghề nghiệp thì rất khó tạo sự thống nhất ý chí
trong phát triển và không thể sản xuất các sản phẩm công nghiệp văn hóa
có sức sống lâu bền, sức cạnh tranh trên thị trường(1). Vì
vậy, vai trò của nguồn lực doanh nghiệp đối với phát triển văn hóa phải
được nhìn nhận rất toàn diện, nhất là nguồn nhân lực quản lý, quản trị
hoạt động doanh nghiệp, nguồn lực công nghệ gắn với chuỗi sản phẩm và
dịch vụ văn hóa mang tính đặc thù của thị trường văn hóa.
Nguồn lực xã hội có
thể thuộc sở hữu của cá nhân, gia đình, cộng đồng, tổ chức xã hội; hoặc
nguồn lực của doanh nghiệp khu vực tư nhân có thể dịch chuyển sang hoạt
động theo nguyên tắc phi lợi nhuận; hoặc nguồn lực của nhà nước, của
toàn dân giao quyền, trao quyền cho cộng đồng sử dụng, quản lý. Nguồn
lực xã hội rất phong phú, cả nguồn lực đất đai và tài sản trên đất, tài
sản cá nhân, tài chính gia đình, nhân lực, tri thức địa phương. Khai
thác nguồn lực các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng là một hướng góp
phần thúc đẩy gia tăng nguồn lực phục vụ bảo tồn và phát triển các giá
trị văn hóa. Nguồn lực xã hội có khả năng đưa vào phát triển văn hóa
như: (i) Đất đai các gia đình hiến tặng xây dựng các công trình phúc lợi
văn hóa; (ii) Di sản văn hóa do gia đình, dòng họ, cộng đồng khai thác,
sử dụng cho các mục đích phúc lợi văn hóa cộng đồng, như nhà thờ, từ
đường, đền chùa, đình miếu, rừng thiêng,... (iii) Các di sản văn hóa phi
vật thể, như kiến trúc, hội họa, âm nhạc của cộng đồng, của các tổ chức
tín ngưỡng, tôn giáo; (iv) Tài chính các gia đình, tổ chức, doanh
nghiệp, người dân hiến tặng xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo
(nhà thờ, chùa, đền, đình, miếu), nhà văn hóa, tượng đài...; (v) Tri
thức tộc người, tri thức địa phương gắn với quản lý kinh tế, xã hội mang
tính sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng; (vi) Nhân lực xã hội bao gồm trí
thức và nghệ nhân hoạt động trong khu vực phi lợi nhuận, công tác xã
hội; (vii) Tài chính của các tổ chức phi lợi nhuận.
Nguồn
lực xã hội hình thành theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản của các chủ
thể xã hội, như gia đình, dòng họ, tổ chức cộng đồng, tổ chức phi lợi
nhuận. Nguồn lực xã hội không có mục đích sinh lời, hoạt động theo
nguyên tắc phi lợi nhuận, hướng vào giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp
phục vụ cộng đồng(2). Nguồn lực xã hội có ưu điểm: (i) Huy
động bằng sự tham gia tự nguyện, tự giác của người đóng góp nên thường
ít bị ràng buộc bởi các thủ tục tài chính ngặt nghèo, như nguồn lực nhà
nước; (ii) Tự quản và tự kiểm soát của các tổ chức cộng đồng nên nguồn
lực đến đúng, trúng, chính xác đối tượng sử dụng, hạn chế thất thoát,
lãng phí; (iii) Do các tổ chức xã hội tự quản nên có thể nhanh chóng
giải ngân khi đưa vào đầu tư, ít gặp các rào cản làm chậm tiến độ, thời
gian; (iv) Đây là tài sản của dân, do dân trực tiếp đóng góp, quản lý
nên sử dụng có giám sát chặt chẽ bằng cơ chế dân chủ cộng đồng.
Tuy
nhiên, nguồn lực xã hội cũng có giới hạn như: (i) Phân tán, khó tập
trung để đầu tư các công trình lớn, chủ yếu xây dựng, phát triển các
công trình nhỏ ở cộng đồng vi mô; (ii) Doanh nghiệp khu vực tư nhân vẫn
thường lợi dụng khu vực phi lợi nhuận để trốn thuế; (iii) Các đơn vị
hoạt động phi lợi nhuận được thiết lập trong doanh nghiệp còn thiếu minh
bạch, chưa rõ với hoạt động kinh doanh chung; (iv) Quản lý nguồn tài
chính xã hội nhiều nơi còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, dễ bị một nhóm
người lợi dụng, thao túng, trục lợi, nhà nước khó can thiệp; (v) Các tổ
chức xã hội, nhất là tổ chức phi chính phủ nước ngoài khi tài trợ nhiều
khi đan cài các động cơ chính trị, thúc đẩy đa nguyên văn hóa, cổ xúy
cho chủ nghĩa địa phương; (vi) Nguồn lực các tổ chức tôn giáo trong một
số trường hợp bị các chức sắc tôn giáo, các lực lượng chống đối lợi dụng
phục vụ cho mưu đồ chính trị, gây ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội; (vii) Tài sản thuộc sở hữu cộng đồng, dễ bị đánh
cắp nếu thiếu khung pháp lý và cơ chế bảo vệ.
Ngày hội khí cầu bên sông Hồng. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY KẾT NỐI, TỐI ƯU HÓA PHÂN BỔ VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC NHÀ NƯỚC, NGUỒN LỰC DOANH NGHIỆP VÀ NGUỒN LỰC XÃ HỘI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Một
là, đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng hiệu quả tài chính công phục vụ
phát triển văn hóa theo hướng vận dụng nguyên tắc cạnh tranh, tăng cường
tính tập trung, bảo đảm “đầu tư công dẫn dắt đầu tư”, “đầu tư công lôi
kéo đầu tư xã hội”.
Phát
triển văn hóa mang lại phúc lợi chung cho người dân, bảo đảm nền tảng
tinh thần cho phát triển bền vững đất nước, thúc đẩy các giá trị công,
nên trước hết cần xác định đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước gắn với đầu
tư ngân sách. Cần khắc phục quan niệm coi văn hóa chỉ thụ hưởng một
chiều thành quả tăng trưởng kinh tế, chi tiêu cho văn hóa thuần túy là
chi tiêu cho phúc lợi của người dân. Đổi mới nhận thức bắt đầu từ quan
niệm đầu tư cho văn hóa chính là đầu tư cho phát triển, không chỉ tạo
lập nền tảng tinh thần, đạo đức, tư tưởng cho phát triển xã hội, mà còn
góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nâng chi tiêu cho văn hóa
lên 2% tổng chi ngân sách, phù hợp với đà tăng trưởng và quy mô của nền
kinh tế. Đầu tư công cho văn hóa phải đạt ngưỡng, mang tính tập trung,
mới đủ sức dẫn dắt đầu tư tư nhân và lôi kéo đầu tư xã hội. Vì vậy, đầu
tư công cho văn hóa phải khắc phục được tình trạng phân tán, hiệu quả
chưa cao, nhất là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa,
đào tạo nhân lực văn hóa, xây dựng các sản phẩm văn hóa đặc sắc mang
thương hiệu quốc gia.
Điều
chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng tập trung cho hiện đại hóa hạ tầng,
thiết chế văn hóa chủ đạo, như hạ tầng số, nhà hát, bảo tàng, thư viện,
công viên, các di tích lịch sử - văn hóa hạng đặc biệt, cấp quốc gia.
Kết hợp hợp lý giữa đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập với đầu tư
dưới hình thức hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng, nhất là trong
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực hội nhập quốc tế (như
đầu tư đào tạo đạo diễn điện ảnh, nghệ sĩ, nghệ nhân...). Coi trọng đầu
tư vào nhân tố con người, chuyển dịch các khoản chi sự nghiệp có tính
đầu tư sang phát triển các năng lực chuyên môn, phát triển con người
(mua sắm thiết bị phục vụ nâng cao trình độ chuyên môn, học tập nước
ngoài, hội thảo, rèn luyện kỹ năng,...).
Đổi
mới cơ chế đầu tư theo hướng chuyển mạnh sang cơ chế đặt hàng các sản
phẩm và dịch vụ văn hóa, không phân biệt khu vực công hay khu vực tư,
kiến tạo thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa công cộng. Áp
dụng các mô hình “đầu tư công, quản trị tư, vận hành tư”(3)
đối với các thiết chế văn hóa đòi hỏi quản trị chuyên nghiệp, hiện đại.
Áp dụng hình thức đấu thầu các gói dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước
nhằm nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả sử dụng tài chính ngân sách, bảo
đảm quyền bình đẳng cơ hội tiếp cận của các đơn vị sự nghiệp công và
tư, doanh nghiệp và tổ chức cộng đồng(4).
Hai
là, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai gắn với tài nguyên, di
sản văn hóa trên mặt đất, trong lòng đất thông qua gắn kết trách nhiệm
nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.
Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý, giao quyền sử dụng cho các chủ thể trong xã hội. Phát
triển văn hóa luôn cần đến nguồn lực đất đai, bao gồm cả đất xây dựng,
phát triển các thiết chế, công trình văn hóa và quản lý, khai thác, sử
dụng di sản văn hóa gắn với bề mặt đất.
Nhà
nước quy hoạch đất đai bảo đảm cho phát triển các không gian công cộng,
thiết chế văn hóa. Thiết chế văn hóa bao giờ cũng ở vị trí trung tâm
các đô thị, đất có giá trị cao, cần quy hoạch quỹ đất phù hợp. Hạn chế
việc di dời các thiết chế văn hóa từ các trung tâm đô thị, có vị trí
đẹp, để lấy đất phát triển các khu thương mại - dịch vụ. Phát triển các
khu công nghiệp, đô thị mới phải tính toán đầy đủ quy hoạch đất cho xây
dựng thiết chế văn hóa.
Hoàn
thiện cơ chế, chính sách bảo đảm quyền tiếp cận, sử dụng công bằng của
mọi chủ thể (nhà nước, doanh nghiệp và xã hội) đối với đất xây dựng các
công trình văn hóa. Có quy định rõ ràng về chế độ miễn thuế sử dụng đất,
ưu tiên cho các nhà đầu tư xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa,
mở mang dịch vụ văn hóa, như trường học, bảo tàng, thư viện, không gian
văn hóa,... hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.
Đất
công sản Nhà nước giao các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai
thác, sử dụng cần rà soát, đánh giá, chỉnh đốn kỷ cương. Cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước hoặc đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trên
lĩnh vực văn hóa phải tính toán đầy đủ giá trị đất theo thị trường. Đất
công sản do các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý trên lĩnh vực văn hóa
phải sử dụng đúng mục đích, kiên quyết dẹp bỏ tình trạng lấn chiếm, sử
dụng không gian công cộng, thiết chế văn hóa cho mục đích thương mại.
Hoàn
thiện các quy định về trao quyền cho cộng đồng quản lý, sử dụng đất gắn
với di tích, di sản trên đất, nhất là đất rừng thiêng, đất di tích -
danh thắng để vừa nâng cao trách nhiệm của cộng đồng quản lý, vừa khai
thác có hiệu quả giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch sinh
thái, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh.
Sửa
đổi các quy định tôn vinh cá nhân, gia đình, dòng họ, gia đình hiến
tặng đất để xây dựng các công trình phúc lợi cộng đồng, thiết chế văn
hóa, như công viên, đường sá, trường học, bảo tàng, thư viện, nhà văn
hóa. Có thể chấp nhận đặt tên người hiến tặng tài sản xây dựng các con
đường, không gian văn hóa, quỹ văn hóa (tất nhiên không có vấn đề về
lịch sử chính trị).
Ba là, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa.
Cần
tiến hành giao quyền tự chủ rộng rãi cho các đơn vị sự nghiệp công lập
có khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa theo cơ chế thị trường,
trước hết là các sản phẩm ngành công nghiệp văn hóa. Các đơn vị cung
ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa thuần công phải lập thành danh mục rõ
ràng để xác định trách nhiệm Nhà nước đầu tư, nhất là các dịch vụ văn
hóa bảo vệ nền tảng tư tưởng, an ninh văn hóa, giá trị đạo đức, nghệ
thuật truyền thống... mà thị trường không cung ứng.
Thực
hiện cổ phần hóa, chuyển đổi mô hình hoạt động các đơn vị sự nghiệp
công lập cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn hóa sang hoạt
động theo cơ chế doanh nghiệp, bảo đảm tự chủ tài chính, tự chủ phương
án hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, xác định trách nhiệm của
Nhà nước trong đào tạo nguồn nhân lực, đặt hàng các sản phẩm để kiến tạo
thị trường, tham gia xúc tiến quảng bá các sản phẩm và dịch vụ văn hóa
Việt Nam ra thế giới.
Các
đơn vị sự nghiệp văn hóa cung ứng dịch vụ thuần công cũng chuyển sang
hoạt động theo cơ chế đặt hàng có cạnh tranh gắn với những sản phẩm cụ
thể, thay vì Nhà nước bao cấp theo cách truyền thống dễ gây nên trì trệ,
dựa dẫm, thiếu động lực đổi mới sáng tạo. Nhà nước có nhiệm vụ hỗ trợ
tài chính cho xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cao
nghiệp vụ, tay nghề, đào tạo nguồn nhân lực, chi trả lương cơ bản. Sản
phẩm “đầu ra” phải đặt hàng với tiêu chí cụ thể, có tính cạnh tranh giữa
các đơn vị trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư, nhất
là các tác phẩm nghệ thuật.
Thúc
đẩy đối tác công - tư (PPP) trong phát triển sự nghiệp văn hóa. Rà soát
các hạng mục, công việc có khả năng thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối
tác công - tư để đưa các chính sách thu hút hấp dẫn, nhất là phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển du lịch.
Có
chính sách đào tạo, phát triển nhân lực văn hóa cho khu vực công, liên
thông với khu vực tư nhân và xã hội. Ngoài đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ, cần phải có chính sách với nghệ nhân, hỗ trợ bằng cơ chế đặc thù để
nuôi dưỡng tài năng, bồi dưỡng, trao truyền tri thức cho thế hệ tiếp
theo.
Bốn
là, thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài cho phát
triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch,
sản phẩm thương mại mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
Định
hình danh mục các sản phẩm và dịch vụ văn hóa hấp dẫn đối với doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) để hoàn thiện cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư.
Các
lĩnh vực quảng cáo, phần mềm và trò chơi giải trí, thiết kế thời trang,
điện ảnh... có dư địa lớn cho thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu
tư nước ngoài, nhất là những sản phẩm hướng tới xuất khẩu. Ngành may mặc
Việt Nam cần thu hút các giám đốc sáng tạo tầm quốc tế có khả năng đưa
ra các thiết kế mới, hợp thị hiếu người tiêu dùng, mang lại giá trị gia
tăng cao cho sản phẩm dệt - may. Ngành điện ảnh rất cần đến hợp tác
chiều sâu, cả vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao để có thể tạo
nên các tác phẩm điện ảnh đủ năng lực hội nhập quốc tế, vươn tầm thị
trường thế giới, quảng bá “sức mạnh mềm” của Việt Nam. Thiết kế các phần
mềm trò chơi, giải trí điện tử gắn với thương mại điện tử luôn cần đến
các khoản đầu tư lớn, đào tạo nguồn nhân lực tiếp cận cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư mà khu vực tư nhân và FDI luôn có thế mạnh.
Một
lĩnh vực rất mới mẻ, còn phải thí điểm, nhưng cũng hứa hẹn khả năng thu
hút đầu tư nước ngoài là đua xe, đua ngựa,... cùng với xây dựng các
chuỗi cung ứng mua sắm các sản phẩm hàng hóa du lịch, thể thao đua xe
gắn với các nhà đầu tư chiến lược.
Phát
triển du lịch dựa trên chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu của những
thương hiệu lớn, chuyên nghiệp, cần có chính sách thu hút, lôi cuốn các
tập đoàn đa quốc gia vào xây dựng chuỗi khách sạn, nhà hàng, trường đua
công thức 1... gắn với phát triển, quảng bá các sản phẩm du lịch đặc thù
mang bản sắc Việt Nam. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, truyền thống ẩm
thực, nông sản OCOP... luôn cần đến vai trò của doanh nghiệp từ đầu tư
vốn, chế biến sâu, xây dựng thương hiệu, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa
lý, quảng bá hình ảnh. Vì vậy, phải có chiến lược thu hút các nhà đầu tư
chiến lược phát triển thể thao, du lịch, phát triển cụm ngành du lịch,
gắn với đó là hàng loạt các dịch vụ văn hóa, giải trí đi kèm.
Hoàn
thiện các chính sách thuế, đất đai có sức hấp dẫn thu hút đầu tư doanh
nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài cho phát triển công nghiệp văn
hóa. Đổi mới phương thức kiểm duyệt sản phẩm công nghiệp văn hóa, tăng
cường quản lý các nền tảng kỹ thuật số xuyên biên giới. Ngành văn hóa
phối hợp chặt chẽ với ngành ngoại giao mở rộng xúc tiến thương mại với
các nhà đầu tư chiến lược, các hãng lớn về công nghiệp văn hóa trên thế
giới, như các hãng điện ảnh, khách sạn, thiết kế thời trang, thiết kế
phần mềm giải trí, đua xe, đua ngựa,... tạo điều kiện cho thu hút đầu tư
nước ngoài.
Năm
là, khuyến khích doanh nghiệp dịch chuyển nguồn lực đầu tư phát triển
các sản phẩm và dịch vụ văn hóa hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.
Trong
xu hướng khu vực phi lợi nhuận ngày càng đóng vai trò quan trọng cho
phát triển văn hóa thì cần phải quy định rõ tính chất, các loại hình
cung ứng dịch vụ phi lợi nhuận nói chung và dịch vụ phi lợi nhuận thuộc
lĩnh vực văn hóa nói riêng, chẳng hạn như các tổ chức phi lợi nhuận
(quỹ, trường học, trung tâm văn hóa) thuộc các doanh nghiệp; các tổ chức
xã hội; các tổ chức cộng đồng; thiết chế văn hóa hoạt động theo nguyên
tắc phi lợi nhuận (bảo tàng, thư viện, phòng tranh, không gian văn hóa,
diễn đàn...).
Phát
triển các dịch vụ văn hóa phi lợi nhuận có thể được tiến hành bằng
nhiều biện pháp khác nhau. Đối với các quỹ, tổ chức văn hóa do doanh
nghiệp tài trợ, thực hiện trách nhiệm xã hội, cần tách bạch rõ với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của
tổ chức phi lợi nhuận. Đối với các quỹ, không gian, diễn đàn, trường dạy
văn hóa thiện nguyện, trung tâm bảo tồn di sản, thư viện, bảo tàng...
do cá nhân lập ra, cần có quy định chặt chẽ để quản lý, tránh bị lợi
dụng cho mục đích thương mại.
Mô
hình quản trị các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa cần được hiện đại hóa. Các tổ chức phi lợi nhuận luôn cần đến
bộ phận tổ chức gây quỹ, phát triển năng lực tài chính một cách chuyên
nghiệp, nhưng các khoản sinh lời phải được đầu tư trở lại phát triển sự
nghiệp văn hóa, không chia cho các thành viên sáng lập. Lập hội đồng
quản trị các thiết chế, quỹ văn hóa trước hết phải là những người am
hiểu nghề, đam mê với văn hóa, nghệ thuật, đạo đức trong sáng. Nhà nước
cần trao quyền rộng rãi cho các tổ chức xã hội trong đánh giá, thẩm định
chuyên môn các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật trước khi ra mắt, phát hành
rộng rãi trước công chúng.
Sáu là, khai thông, giải phóng tối đa các nguồn lực xã hội phục vụ phát triển văn hóa.
Không
có loại nguồn lực nào mà tiềm năng trong xã hội lại phong phú, đa dạng
như nguồn lực văn hóa, bởi nó gắn liền với với mỗi con người, gia đình,
dòng họ, cộng đồng địa phương, tổ chức xã hội, gồm cả nguồn lực vật thể
và nguồn lực phi vật thể.
Nguồn
lực văn hóa vật thể, như di tích lịch sử - văn hóa (đền, chùa, đình,
miếu, nhà rông, từ đường dòng họ,...), di tích - danh thắng, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia, rừng thiêng. Các nguồn lực này có thể do nhà nước
sở hữu, lưu giữ, quản lý, khai thác trong các bảo tàng; có thể do cộng
đồng sở hữu, quản lý, sử dụng phục vụ cho các nhu cầu tín ngưỡng, lễ hội
dân gian, dòng họ gắn với không gian diễn xướng cụ thể; có thể do tư
nhân nắm giữ trong các gia đình. Nguồn lực văn hóa phi vật thể, như tín
ngưỡng, lễ hội, phong tục, tập quán, văn hóa dân gian, nghệ thuật dân
gian, tri thức địa phương, các giá trị kiến trúc, âm nhạc, hội họa dân
gian... đều gắn liền với vai trò quản lý, khai thác, sử dụng của các tổ
chức cộng đồng, tổ chức xã hội, vai trò của nghệ nhân dân gian, người có
uy tín tại cộng đồng.
Khai
thác, phát huy nguồn lực này đòi hỏi phải xử lý tốt mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển, bảo tồn “tĩnh” và bảo tồn “động” trong đời sống
cộng đồng. Trong đó, việc bảo tồn gắn với khai thác phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, giáo dục lịch sử, du lịch cần đặc biệt được coi trọng.
Cần chú ý áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp để khai thác, phát
huy có hiệu quả các nguồn lực văn hóa phục vụ du lịch mà Bảo tàng tỉnh
Quảng Ninh là một ví dụ tiêu biểu(5).
Cần
phân định vai trò của Nhà nước, vai trò doanh nghiệp và vai trò cộng
đồng trong phát huy nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa. Tuyệt đối
hóa vai trò của Nhà nước sẽ làm xơ cứng, không khơi dậy được vai trò,
sức mạnh của doanh nghiệp và cộng đồng trong huy động, sử dụng nguồn lực
văn hóa. Tuyệt đối hóa vai trò của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy thương mại
hóa các giá trị văn hóa mà trong nhiều trường hợp làm mất đi định hướng
giá trị, không phản ánh đúng đắn, đầy đủ chức năng của văn hóa. Tuyệt
đối hóa vai trò của xã hội sẽ làm cho nguồn lực văn hóa chỉ đóng khung
trong giới hạn cộng đồng, không được kết nối, phát huy bằng sức mạnh cơ
chế thị trường để nâng cao giá trị, vốn hóa các tài nguyên văn hóa phục
vụ phát triển kinh tế.
Vai
trò Nhà nước thể hiện ở việc kiến tạo thể chế, quy hoạch, đầu tư công
dẫn dắt cho đầu tư tư nhân và lôi cuốn đầu tư xã hội phát triển văn hóa.
Cần hoàn thiện khung thể chế, luật pháp bảo vệ bản quyền tác giả, bảo
vệ quyền sở hữu cộng đồng đối với tri thức địa phương, ngăn chặn tình
trạng bị đánh cắp(6). Doanh nghiệp tham gia phát triển văn
hóa nhưng không phải lấn sân, chèn ép không gian các tổ chức cộng đồng,
mà kết nối, hợp tác, hướng dẫn cộng đồng tự quản các di tích, danh
thắng, phân bổ lợi ích hài hòa giữa doanh nghiệp và cộng đồng(7).
Các tổ chức cộng đồng cần áp dụng nguyên tắc thị trường để quảng bá,
phát huy, vốn hóa các tài nguyên văn hóa như giá trị tri thức địa phương
trong các nông sản, truyền thống ẩm thực, sản phẩm thủ công truyền
thống mang giá trị khác biệt (như sản phẩm OCOP), khai thác giá trị rừng
thiêng, không gian sinh thái, di tích - cảnh quan phục vụ phát triển du
lịch. Chính quyền không can thiệp sâu vào hoạt động quản trị của doanh
nghiệp và cộng đồng, mà chỉ ban hành quy định hướng dẫn và kiểm tra,
giám sát thực hiện đúng quy định.
Tinh hoa nghề truyền thống. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Một là,
rà soát, đổi mới cách thức phân bổ, sử dụng nguồn tài chính công đầu tư
cho phát triển văn hóa theo hướng: Xây dựng chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển văn hóa theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm (đến năm 2030 và giai đoạn 2021 - 2040), gắn với xác định rõ sản
phẩm và dịch vụ văn hóa cụ thể; đầu tư tập trung nguồn lực xây dựng các
thiết chế văn hóa hiện đại (nhà hát, bảo tàng, thư viện, sân vận động
thể thao, công viên), tạo nên điểm nhấn ở các đô thị lớn, xứng tầm với
vị thế quốc gia tầm trung; đầu tư vào phát triển các sản phẩm văn hóa
đặc sắc cần có đột phá, nhất là tác phẩm văn hóa, nghệ thuật; cơ cấu lại
các khoản đầu tư có tính sự nghiệp hướng vào nhân tố con người, thay vì
cắt chuyển sang đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Đầu tư công tập trung,
đạt ngưỡng thì mới thực hiện được vai trò “đầu tư công dẫn dắt đầu tư
tư”, “đầu tư công lôi kéo đầu tư xã hội”.
Hai là,
định hình chiến lược phát triển nguồn nhân lực văn hóa với các đối
tượng cụ thể: (i) Văn nghệ sĩ, nghệ nhân - những người sáng tạo nên tác
phẩm văn hóa, nghệ thuật đặc sắc; (ii) Giám đốc sáng tạo (thiết kế thời
trang), lập trình viên phần mềm công nghiệp giải trí - những người kiến
tạo nên giá trị các sản phẩm công nghiệp văn hóa; (iii) Các nhà lãnh
đạo, quản trị công có tầm vóc văn hóa - những người quyết định đến thiết
kế đường lối, chiến lược phát triển đất nước dựa trên nền tảng và tầm
nhìn văn hóa. Mỗi loại nguồn nhân lực nêu trên cần được đầu tư đúng tầm,
có chính sách đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, gắn với xác định rõ trách
nhiệm Nhà nước, thị trường và xã hội. Chú ý năng lực hội nhập quốc tế
đối với nguồn nhân lực lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Ba là,
hoàn thiện thể chế, quy định, chế tài bảo vệ lợi ích công cộng, trong
đó có các không gian công cộng, thiết chế văn hóa công cộng nhằm bảo đảm
phúc lợi văn hóa cho người dân, nhất là ở địa bàn đô thị. Định hình một
cơ chế, có chủ thể rõ ràng khiếu kiện, bảo vệ lợi ích công cộng trong
điều kiện kinh tế thị trường, nhằm khôi phục các không gian văn hóa đã
bị lấn chiếm, bảo vệ các không gian công đứng trước thách thức các lực
lượng thị trường chiếm dụng, thu hẹp, giữ nghiêm kỷ luật và chỉnh đốn
quản lý quy hoạch phát triển các không gian công cộng.
Bốn là,
có cơ chế bảo vệ quyền sở hữu cộng đồng đối với tri thức địa phương,
như tri thức địa phương về chăm sóc sức khỏe, các bài thuốc gia truyền;
các giống cây trồng, vật nuôi có nguồn gien bản địa; quy trình và công
nghệ truyền thống về nuôi, trồng cây, con bản địa; phương pháp bảo quản
và chế biến các hàng thủ công mỹ nghệ,... gắn với xuất xứ, chỉ dẫn địa
lý, để chúng không bị đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng trong quá
trình tham gia hội nhập quốc tế. Trong quá trình phát triển các sản phẩm
OCOP cùng với đăng ký thương hiệu, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý là
phải được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng.
Năm là,
định hình cơ chế phân phối hài hòa lợi ích của các chủ thể nắm các khâu
khác nhau của chuỗi giá trị văn hóa gắn với phát triển cụm ngành du
lịch. Các yếu tố đầu vào phát triển du lịch gồm: nguồn tài nguyên, kết
cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nguồn kiến thức, nguồn vốn... phải theo
nguyên tắc phân phối lợi ích theo chủ sở hữu đóng góp. Nhà nước đầu tư
kết cấu hạ tầng, sở hữu tài nguyên đất đai, nguồn nhân lực khu vực
công... nên được thu thuế hoặc phí, lệ phí để bù đắp các chi phí; doanh
nghiệp đầu tư vào phát triển nhân lực (doanh nghiệp), bỏ vốn đầu tư nhà
hàng, khách sạn, hoạt động lữ hành,... được thu lợi nhuận với chi phí bỏ
ra; cộng đồng có sở hữu tài nguyên văn hóa, tri thức địa phương, nhân
lực xã hội... cũng phải được hưởng lợi với đóng góp của mình. Phân phối
lợi ích gắn liền với từng chủ thể Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng tổ
chức, vận hành hoạt động du lịch(8); không chỉ xem xét trong
một di tích - danh thắng cụ thể, mà phải đặt trong tổng thể cụm ngành
mang lại giá trị gia tăng cho từng di tích - danh thắng đó./.
PGS. TS. ĐOÀN MINH HUẤN
Ủy viên Trung ương Đảng
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
______________________
(1) Bài học cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam là một ví dụ cho trường hợp này.
(2) Phi lợi nhuận không có nghĩa là loại trừ hoạt động kinh doanh sinh
lời, quan trọng là các khoản sinh lời không chia cho chủ sở hữu, mà tái
đầu tư vào phát triển sự nghiệp văn hóa.
(3) Nhà nước có thể đầu tư xây dựng các nhà hát hiện đại, nhưng ủy quyền cho tư nhân quản trị, khai thác, vận hành.
(4) Như đấu thầu cạnh tranh thiết kế các khu di tích lịch sử - văn hóa phục vụ cho du lịch.
(5) Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh là đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn phần, hoạt
động theo cơ chế doanh nghiệp, có chiến lược khách hàng, chiến lược sản
phẩm, phát triển thị trường,... gắn với định hình các bộ phận tiếp
thị,...
(6) Các nguồn gen bản địa, thảo dược quý hiếm, bài thuốc gia truyền bị nước ngoài đánh cắp mà không có cơ chế bảo vệ.
(7) Ở nhiều quốc gia, doanh nghiệp du lịch chỉ làm nhiệm vụ kinh doanh
lữ hành và lưu trú, ăn uống; còn cộng đồng địa phương mới được quyền tổ
chức tham quan, tổ chức bán hàng lưu niệm cho khách du lịch trong khu di
tích. (8) Như doanh nghiệp nắm giữ các khâu: dịch vụ lưu trú và ăn
uống, dịch vụ lữ hành, rạp chiếu phim, truyền thông sản phẩm...; Nhà
nước nắm các khâu: phương tiện truyền thông, an ninh và dịch vụ bảo vệ,
thông tin, liên lạc, internet, dịch vụ tài chính - ngân hàng; còn cộng
đồng nắm giữ các khâu: đưa khách tham quan trong khu di tích, tổ chức
thực hành lễ hội...
(8) Như doanh nghiệp nắm giữ các khâu: dịch vụ lưu trú và ăn uống, dịch
vụ lữ hành, rạp chiếu phim, truyền thông sản phẩm...; Nhà nước nắm các
khâu: phương tiện truyền thông, an ninh và dịch vụ bảo vệ, thông tin,
liên lạc, internet, dịch vụ tài chính - ngân hàng; còn cộng đồng nắm giữ
các khâu: đưa khách tham quan trong khu di tích, tổ chức thực hành lễ
hội...
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)