Thứ Sáu, 22/11/2024
Xã hội
Thứ Ba, 3/7/2018 9:16'(GMT+7)

Làm thế nào để duy trì vững chắc mức sinh thay thế

Gần 60 năm qua, nhờ kiên trì đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) mức sinh của Việt Nam đã giảm rất nhiều. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, trung bình mỗi bà mẹ sinh khoảng 7 con, nay chỉ có 2 con, người ta gọi là đạt “mức sinh thay thế”. Sinh đẻ từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng đã chuyển sang hành vi có kế hoạch, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng nhiều, chất lượng thấp sang số lượng ít, chất lượng cao; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn. Đây thực sự là một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Kết quả này đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ, sâu rộng theo hướng tích cực đến sự phát triển bền vững của nước ta. Ghi nhận thành tựu này, ngay từ năm 1999, Liên hợp quốc đã trao Giải thưởng Dân số cho Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu tiếp tục đẩy mạnh KHHGĐ, mức sinh sẽ giảm sâu hơn, dưới ngưỡng “thay thế”. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, sau khi đạt được mức “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con”, nếu vẫn tiếp tục duy trì chính sách giảm sinh sẽ phải đối mặt với tình trạng dân số giảm, già hóa trầm trọng, thiếu lao động… từ đó, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy, Nghị quyết số 21 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, đã nhấn mạnh chủ trương “chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển” và xác định mục tiêu không phải “giảm nhanh mức sinh” như trước đây mà là “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người” vào năm 2030.

Để đạt mục tiêu này, theo tính toán của các nhà khoa học, luôn luôn phải có từ 13 triệu đến 14 triệu cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng biện pháp tránh thai (năm 2016 con số này là 12,7 triệu). Không đáp ứng được nhu cầu này, hoặc mức sinh bùng nổ, hoặc nạn phá thai sẽ tăng lên. Theo chủ trương mới, KHHGĐ chỉ không còn là “trọng tâm” của chính sách dân số chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ”, nhất là khi 2/3 dân số nước ta sống ở nông thôn, tỷ lệ lao động nông nghiệp cao, nghĩa là vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để mức sinh có thể tăng lên. Mặt khác, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ vẫn tăng dần nên nhu cầu KHHGĐ sẽ ngày càng lớn. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới.

Tính chung trên phạm vi cả nước, Việt Nam đã đạt mục tiêu “mức sinh thay thế” một cách vững chắc, nhưng do trình độ phát triển không đều nên giữa các tỉnh, mức sinh chênh lệch khá lớn. Hàng chục năm nay vẫn tồn tại 3 nhóm tỉnh: Nhóm có mức sinh cao, thường là các tỉnh thuộc miền núi, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ. Nhiều tỉnh mức sinh giảm rất sâu, như các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Nhóm còn lại, gồm các tỉnh đang duy trì được mức sinh thay thế. Vì vậy, Nghị quyết 21-NQ/TW chỉ rõ phương hướng sẽ thực hiện: “giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”. Điều này có nghĩa là, chương trình KHHGĐ ở nước ta phải làm sao cho mức sinh giữa các tỉnh, thành phố nhích lại gần nhau, gần mức sinh thay thế. Theo đó, công tác KHHGĐ phải được cụ thể hóa theo từng nhóm tỉnh, thành phố; phải có sự phân biệt về mục tiêu, nội dung truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cho phù hợp với kết quả về mức sinh mà mỗi tỉnh đã đạt được, chứ không đồng nhất như trước đây.

Đối với các tỉnh chưa đạt mức sinh thay thế, mục tiêu của KHHGĐ vẫn phải hướng đến giảm sinh. Đặc biệt, các tỉnh có mức sinh cao thì giảm sinh nên là một mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương. Công tác truyền thông, giáo dục, tư vấn về KHHGĐ phải được đẩy mạnh. Việc cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cần đa dạng hóa, trong đó có thể cấp phát miễn phí hoặc bán rẻ những đối tượng thuộc diện nghèo để đảm bảo “mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại”. Đối với nhóm tỉnh này, vẫn cần có chính sách khuyến khích cả vật chất và tinh thần cho những người thực hiện tốt công tác KHHGĐ. 

Ở các nước phát triển, tình trạng sinh đẻ rất ít, thậm chí không sinh con đã phổ biến. Hiện tượng này ở Việt Nam đã xuất hiện ở một số ít địa phương. Năm 2016, bình quân mỗi phụ nữ chỉ sinh 1,46 con; đặc biệt Thành phố Hồ Chí Minh con số này là 1,24 con. Mức sinh như vậy thấp hơn nhiều so với các nước vốn có mức sinh thấp nhất thế giới, như: Nhật và Đức. Cần lý giải nguyên nhân, làm rõ hậu quả và thực hiện nhiều giải pháp để những địa phương có mức sinh thấp như vậy “sinh đủ 2 con”. Rõ ràng, ở những tỉnh này, KHHGĐ không còn là mục tiêu để giảm sinh mà chỉ để giúp những ai muốn giãn cách các lần sinh hoặc không muốn sinh quá 2 con. Các biện pháp thực hiện công tác KHHGĐ cũng cần thay đổi. Truyền thông, một mặt, phải làm rõ hậu quả của sinh muộn, sinh 1 con hoặc không sinh con đối với chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình; sự phát triển bền vững của địa phương và đất nước. Mặt khác, cần chuyển sang những chủ đề mới, như: tận dụng cơ hội cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, di cư và đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số. Việc cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cần được “thị trường hóa” và chấm dứt mọi chính sách khuyến khích giảm sinh trước đây. Ngược lại, cần xây dựng, đa dạng hóa hệ thống dịch vụ, hỗ trợ gia đình, đặc biệt là hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo; chế độ đối với cặp vợ chồng lao động khi sinh con... nhằm giảm bớt gánh nặng nuôi dạy và chăm sóc trẻ. 

Đối với những tỉnh đã đạt mức sinh thay thế, mục tiêu của công tác dân số là “duy trì kết quả” này, nghĩa là không để mức sinh giảm xuống hoặc tăng lên. Các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu này tương tự như nhóm có mức sinh thấp. Bên cạnh đó, cần tránh tư tưởng chủ quan, tránh những thay đổi đột ngột trong công tác KHHGĐ. Cần chú ý rằng, mức sinh giảm ở nước ta không chỉ do sự tiến bộ kinh tế, xã hội mà còn do tác động mạnh mẽ của chính sách, chương trình dân số - KHHGĐ. Do đó, bất kỳ sự buông lỏng nào trong công tác dân số đều có thể làm mức sinh tăng lên. Mức sinh luôn biến động theo thời gian và theo địa phương. Vì vậy, để có cơ sở ra những quyết định phù hợp, đúng đắn cho vấn đề KHHGĐ, điều tiên quyết là hằng năm, các tỉnh, thành phố cần được cập nhật số liệu chính xác về dân số nói chung, tình trạng KHHGĐ và mức sinh nói riêng. Điều này có nghĩa là cần tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thống kê dân số - KHHGĐ.

Với việc ban hành Nghị quyết 21, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chúng ta tin tưởng rằng, không chỉ trên phạm vi cả nước mà mỗi tỉnh, thành phố của Việt Nam cũng sẽ đạt được mức sinh thay thế, cơ cấu dân số vàng vẫn được duy trì, góp phần đảm bảo phát triển bền vững gia đình và đất nước./.

 

BS. Mai Xuân Phương

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất