Hội nghị giao ban ba Ban chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ đã diễn ra
ngày 14/9, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ
đạo Tây Bắc; Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Chỉ đạo
Tây Nguyên và Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ Vũ Văn Ninh
tham dự Hội nghị.
Hội nghị giao ban lần này được tổ chức nhằm kiểm điểm
việc thực hiện Quy định số 96-QĐ/TW ngày 28/5/2012 của Bộ Chính trị về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo; Báo
cáo thực hiện Quy định số 97-QĐ/TW ngày 28/5/2012 về chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức và người lao động ở các Ban Chỉ đạo; trao đổi thảo luận về vấn
đề liên kết vùng; tham khảo, đóng góp ý kiến xây dựng Quy chế liên kết vùng của
Đồng bằng sông Cửu Long.
Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc đánh giá ngay sau khi có Quy định số 96-QĐ/TW của Bộ Chính trị, thường
trực các Ban đã kịp thời tổ chức quán triệt và thực hiện theo quy định của Bộ
Chính trị, từ đó nội dung hoạt động đã được cải tiến, mang lại hiệu quả thiết
thực trong công việc.
Cùng với việc kiện toàn, củng cố về nhân sự, hoạt
động của các Ban Chỉ đạo đã xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương
triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư và Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, công tác dân tộc, tôn giáo, xây dựng hệ thống chính trị trên địa bàn ba
vùng.
Riêng với vấn đề liên kết vùng, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc đánh giá là việc hết sức quan trọng và bức thiết, vì vậy các Ban Chỉ
đạo cần chia sẻ kinh nghiệm để xây dựng chương trình liên kết mang tính khả thi,
chia sẻ cách làm tốt, phù hợp với hoàn cảnh từng vùng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
Trung ương giao.
Đánh giá thực trạng liên kết vùng hiện nay, ý kiến của
đại biểu tham dự hội nghị cho rằng liên kết vùng là vấn đề có tính bức thiết,
không chỉ đặt ra đối với các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ mà được nhiều
vùng và địa phương khác quan tâm. Hiện nay, tại ba vùng này đã bước đầu có sự
phối hợp nhưng nhìn chung, sự liên kết vùng vẫn chưa được phát huy.
Trong đó, sự phối hợp giữa các địa phương còn mang tính hình thức, hành
chính; thiếu các cơ chế hiệu quả để tạo sự liên kết, thực hiện các cam kết phối
hợp; bất cập trong việc phối hợp thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế-xã hội và quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm…
Từ những bất cập
nêu trên, Phó Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ Nguyễn Phong Quang đã nêu bật sự cấp thiết
xây dựng quy chế liên kết vùng. Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ hiện đã xây dựng dự thảo
Quy chế Liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó thể hiện các nội dung cụ
thể như hình thức liên kết, nguyên tắc liên kết, các nội dung liên kết, cơ chế
liên kết, cơ chế hỗ trợ tài chính đối với các dự án liên kết vùng…
Đại
diện cho địa phương được coi là điển hình về mối liên kết chặt chẽ với các địa
phương khác trong phát triển kinh tế-xã hội, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm
Đồng Nguyễn Xuân Tiến cho biết việc liên kết đã mang lại những kết quả thiết
thực và trở thành điều kiện và động lực quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương. Riêng việc liên kết giữa Lâm Đồng với Thành phố Hồ Chí Minh đã
được thực hiện rất sớm trên các lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, đào tạo nguồn
nhân lực…
Đồng quan điểm về việc cấp thiết phải xây dựng liên kết vùng ở
3 địa bàn trọng điểm nêu trên, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ nhận
định kinh tế vùng và liên kết vùng nằm trong mối quan hệ chung giữa chức năng
nhiệm vụ của chính quyền trung ương và địa phương trong điều kiện vận hành kinh
tế thị trường; quy hoạch ngành, quy hoạch vùng kinh tế; liên kết vùng trên cơ sở
liên kết vi mô, ngành; phân cấp trung ương và địa phương.
Trưởng Ban
Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ nhận xét đây là vấn đề bức thiết vì hiện nay
mô hình liên kết kinh tế cấp tỉnh là chính, còn liên kết vùng còn rất yếu. Tuy
nhiên khi xây dựng chương trình liên kết cần phải xem xét cho phù hợp với quy
hoạch chung của cả nước và ngành; dựa trên cơ sở định hướng phát triển vùng,
không được phá vỡ quy hoạch tổng thể chung.
Động lực của liên kết bao
gồm lợi ích tự thân của các tỉnh và lợi ích tổng thể của cả vùng, quốc gia,
trong đó nếu làm tốt lợi ích tổng thể sẽ tạo ra lợi ích thiết thân của tỉnh. Ở
đây cần khẳng định rõ vai trò của Ban Chỉ đạo như "nhạc trưởng" điều hành trong
vấn đề liên kết.
Sau khi nghe những ý kiến nêu trên, Trưởng Ban Chỉ đạo
Tây Nam bộ Vũ Văn Ninh đánh giá trong liên kết vùng sẽ phải có một số nội dung
bắt buộc phải liên kết giữa các tỉnh, các vùng, thậm chí là các nước. Hiện ở
nhiều địa phương đã ký kết các chương trình tự liên kết rất mạnh, nhưng có vấn
đề không thể tự liên kết như xử lý môi trường sông Đồng Nai, sông Cầu…
Nội dung liên kết vùng cần đề ra trong tất cả các lĩnh vực, kinh tế, xã
hội, doanh nghiệp, nông dân, xử lý môi trường. Trong đó vấn đề cần quan tâm là
phát huy tiềm năng địa phương, vùng và cả nước, phục vụ công tác ổn định xã hội,
an ninh quốc phòng; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của từng địa phương, vùng và quốc
gia.
Để thực hiện hiệu quả mối liên kết các địa phương trong vùng,
Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ Vũ Văn Ninh cho rằng ở cấp quốc gia cần có quy
định rõ về các vấn đề liên kết phù hợp với yêu cầu cả nước, đặc điểm từng vùng
về tự nhiên xã hội; ở cấp địa phương khuyến khích thỏa thuận quy chế liên kết và
thực hiện quy chế chung của cả nước, từ đó gắn kết được từng vùng, từng địa
phương, đảm bảo phân chia hợp lý quyền lợi giữa các địa phương trong vùng.
Kết thúc Hội nghị, Đại tướng Trần Đại Quang cho biết Hội nghị thống nhất
cao các báo cáo, phát biểu, nhận định kết quả đạt được của ba Ban Chỉ
đạo.
Thời gian qua, 3 Ban Chỉ đạo đã triển khai nghiêm túc, có hiệu quả
Quy định 96 của Bộ Chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng lực lượng cán
bộ là người dân tộc thiểu số, giải quyết các vấn đề nổi lên ở các vùng dân tộc
thiểu số; chủ động phối hợp với các lực lượng công an, quân đội tổ chức tốt nắm
tình hình từ xa để kịp thời có chủ trương, đối sách phòng ngừa đấu tranh làm
thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; không để tình trạng gây
rối, phức tạp xã hội trên các địa bàn; cùng với các bộ, ngành, địa phương giải
quyết kịp thời những bức xúc về nhà ở, đất đai, việc làm cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở 3 vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ…
Riêng về liên kết
vùng, Đại tướng Trần Đại Quang nhận định những ý kiến đóng góp tương đối đầy đủ,
và cần được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra cơ chế chính sách thúc đẩy liên kết
vùng ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ. Liên kết vùng sẽ tạo nên mối quan hệ
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ…. Vì
vậy, cần xây dựng quy chế chặt chẽ trong liên kết vùng và liên kết với các địa
phương khác.
Về nhiệm vụ thời gian tới, các Ban Chỉ đạo cần tập trung
chỉ đạo, bám sát nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội từng vùng, giao thông, thủy
lợi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chăm sóc sức khỏe đồng bào dân tộc; xây dựng
củng cố hệ thống chính trị, chăm lo đào tạo cán bộ, ưu tiên phát triển các cán
bộ người dân tộc người thiểu số, để vừa xây dựng kinh tế xã hội, vừa đảm bảo
quốc phòng an ninh ở các địa bàn trọng điểm; tổ chức tốt công tác nắm tình hình,
bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia…/.
Liên Phương
(TTXVN)