Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, sau 9 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, trong không khí dân chủ, đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) họp từ ngày 7 đến 15-5-2012 đã hoàn thành nội dung chương trình đề ra.
Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung bốn Kết luận và một Nghị quyết với sự thống nhất cao, đó là: Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.
Dưới đây là một số nội dung cơ bản đã được Hội nghị Trung ương bàn và thông qua.
I. Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
1. Về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, là đạo luật cơ bản của Nhà nước, văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, thể hiện bản chất dân chủ tiến bộ của Nhà nước, chế độ ta. Việc thi hành Hiến pháp năm 1992 trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta đã có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng, dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng được mở rộng nên nhiều quy định của Hiến pháp đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp.
2. Những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên kết quả tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những quy định còn phù hợp của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, đồng thời phải quán triệt đầy đủ mục đích, yêu cầu, quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết Trung ương 2, khóa XI, Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã có đủ cơ sở, tạo được sự thống nhất cao về cơ bản. Hội nghị Trung ương 5 đã tán thành những nội dung sửa đổi sau:
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
Căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011. Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh), việc sửa đổi Hiến pháp phải thể hiện đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
- Sửa đổi Hiến pháp 1992 để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước
Khẳng định và thể hiện rõ tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực để phát triển đất nước; huy động các lực lượng xã hội trong và ngoài nước, củng cố và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc và Công đoàn và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
Các ý kiến thảo luận nhất trí cao và tán thành tiếp tục giữ quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời, bổ sung một số nội dung về bản chất, vai trò, trách nhiệm của Đảng cho phù hợp với tinh thần Cương lĩnh. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cần thể hiện sâu sắc, toàn diện hơn về bản chất của Đảng trong Hiến pháp để thấy được vai trò và sứ mệnh lịch sử to lớn của Đảng qua các giai đoạn cách mạng, nên nhân dân tin tưởng giao phó vai trò lãnh đạo cho Đảng. Đồng thời, Hiến pháp cần quy định trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người. Quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải do Hiến pháp và Luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
Khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tiếp tục kế thừa chế định về sở hữu đất đai đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, cần làm rõ một số vấn đề có tính nguyên tắc như: Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; quy định các quyền của chủ sở hữu về đất đai (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt); phân định rõ quyền của chủ sở hữu và quyền của người sử dụng đất… Thể chế hóa Cương lĩnh về các vấn đề văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường trong Hiến pháp cho phù hợp với tình hình mới.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy Nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992.
Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để có phương án phù hợp quy định trong Hiến pháp về đơn vị hành chính lãnh thổ, cấp hành chính và tổ chức chính quyền địa phương phù hợp; quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương.
Tiếp tục hoàn thiện và phát huy cơ chế hiện hành về bảo vệ Hiến pháp theo hướng rà soát lại nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, nhất là tăng cường vai trò, trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu các phương án về mô hình cơ quan bảo vệ Hiến pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện của nước ta.
- Sửa đổi Hiến pháp để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
Phân định rõ hơn thẩm quyền của các chủ thể trong việc ký kết, phê chuẩn điều ước quốc tế; xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước ta đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới.
- Sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp
Quy trình sửa đổi Hiến pháp được tiếp tục thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa XI) và quy định tại Điều 147 của Hiến pháp hiện hành, tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học; có cơ chế bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân để Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét, quyết định.
II. Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
1. Tình hình tổ chức thực hiện Nghị quyết
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa và qua thực tế triển khai thi hành đã chứng minh cơ bản là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết đã có tác động tích cực, tạo sự chuyển biến trong lĩnh vực đất đai, tăng cường một bước hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, khai thác tiềm năng đất đai phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ môi trường; đóng góp nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, yếu kém như: Công tác quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế, bất cập. Quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với các quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn yếu. Các quy định pháp luật về đất đai vẫn còn một số nội dung chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng đất. Chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai và chưa giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa đủ rõ và còn nhiều vướng mắc. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa nghiêm. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài, diễn biến phức tạp. Nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai chưa đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp cơ sở...
2. Quan điểm chỉ đạo và định hướng tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
Quan điểm chỉ đạo
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Trong thời gian tới tiếp tục kế thừa những quan điểm chỉ đạo về chính sách, pháp luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), đồng thời có bổ sung và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Định hướng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai
- Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc chế độ sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
- Việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng được thực hiện theo Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định số 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ, không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân.
- Tiếp tục quy định thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân và mở rộng hơn so với quy định hiện hành.
- Quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, nhưng cần nâng hạn mức, chú ý đến đặc điểm của từng vùng, phù hợp với từng giai đoạn và giao cho Chính phủ quy định cụ thể.
- Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính về đất đai. Nhà nước chủ động điều tiết giá đất trên thị trường bằng quan hệ cung-cầu; rà soát pháp luật về thuế liên quan đến đất đai và bất động sản, các ưu đãi về thuế để đảm bảo công bằng, nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, khắc phục tình trạng chậm đưa vào sử dụng hoặc bỏ hoang đất đã giao, đã cho thuê; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng tạo ra.
- Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch để tạo quỹ đất “sạch”, đầu tư công trình kết cấu hạ tầng, công trình phục vụ lợi ích công cộng và tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất.
- Cần nghiêm túc thực hiện theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự. Các cơ quan có thẩm quyền phải đề cao trách nhiệm, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật; củng cố hệ thống thanh tra đất đai, tòa án các cấp đáp ứng thực thi nhiệm vụ. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai.
- Những vấn đề quan trọng, chưa đủ rõ, trong quá trình thảo luận còn có ý kiến khác nhau như: thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân; hạn mức nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp; quyền của người sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; vấn đề tạo nguồn lực từ đất… sẽ được tiếp tục nghiên cứu, để đến Hội nghị Trung ương 6 xem xét, ban hành Nghị quyết mới định hướng cho việc sửa đổi Luật đất đai năm 2003.
III. Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”
1. Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết
Những kết quả đạt được
- Sau 5 năm thực hiện, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, đã tạo được những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động trong phòng chống tham nhũng, lãng phí (PCTN, LP).
- Công tác PCTN, LP đã đạt được những kết quả bước đầu. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế.
- Những kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cao hơn trong công tác PCTN, LP. Kết quả đó cũng khẳng định những chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3, Luật PCTN, Luật Thực hành tiết kiệm (THTK), chống lãng phí (CLP) là cơ bản đúng đắn, phù hợp.
Những hạn chế, bất cập
- Công tác PCTN, LP nói chung và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 nói riêng trong những năm qua vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
- Tham nhũng, lãng phí vẫn xảy ra nghiêm trọng trong nhiều lĩnh vực và các hoạt động, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu vẫn là các nguyên nhân chủ quan sau:
Thứ nhất, không ít cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, LP. Vai trò của nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng trong đấu tranh PCTN, LP còn mờ nhạt. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi chưa nghiêm túc. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, kể cả cấp Trung ương chưa nêu gương về đạo đức, lối sống và chưa kiên quyết đấu tranh PCTN, LP.
Thứ hai, cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập, thiếu công khai, minh bạch và nhất quán; tình trạng “xin - cho”, nhất là trong việc phân bổ nguồn lực chưa được khắc phục.
Thứ ba, một số quy định về PCTN, LP chưa phù hợp, thiếu đồng bộ, chưa đủ chặt chẽ nên tác dụng hạn chế.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN chưa đủ mạnh, có mặt chưa hợp lý.
2. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp
Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo
Quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; tiếp tục thực hiện đồng bộ các mục tiêu, quan điểm, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, LP với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật để tạo chuyển biến mới trong công tác PCTN, LP.
Nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp PCTN, LP, trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đấu tranh PCTN, LP. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu phải thực sự coi công tác PCTN, LP là một nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
Trong các kỳ họp thường kỳ của các cấp ủy và tổ chức đảng phải có nội dung PCTN, LP. Bí thư cấp ủy và người đứng đầu chính quyền các cấp phải thực sự gương mẫu và dành thời gian thích đáng để lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, LP. Các tỉnh ủy, thành ủy cần lựa chọn, bố trí những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức trực tiếp làm công tác này; đồng thời tăng cường kiểm tra và nghe các cơ quan có chức năng PCTN, LP báo cáo để chỉ đạo kịp thời. Nơi nào có điều kiện thì bố trí cấp ủy viên làm Phó Trưởng Ban chỉ đạo PCTN cấp tỉnh.
Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng PCTN của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, kịp thời xử lý và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên vi phạm. Kiểm tra, rà soát, đánh giá vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu trong công tác PCTN, LP.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật đất đai và các luật liên quan theo hướng tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản (quy hoạch, thu hồi, bồi thường, giao đất, cho thuê đất, định giá, đấu giá quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên, khoáng sản…). Nghiên cứu xây dựng cơ chế tách quyền giao đất, cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản với quyền định giá đất, định giá tài nguyên, khoáng sản của chính quyền địa phương nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách. Kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công, nhất là mua sắm và đầu tư công; các khoản chi thường xuyên; các định mức, tiêu chuẩn trong sản xuất, tiêu dùng; khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước trong doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước; thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp; thực hiện nghiêm túc việc kiểm toán và công khai, minh bạch về tài chính. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng. Hoàn thiện các quy định để kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư… Sớm xây dựng các quy định để thực hiện Quyết định số 2453/QĐ-TTG ngày 27-12-2011 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt nhằm kiểm soát, phòng ngừa tham nhũng.
Trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân và doanh nghiệp. Cần tập trung thực hiện mạnh mẽ việc cải cách thủ tục hành chính để tạo sự đơn giản, công khai, minh bạch trong giao dịch, giao tiếp ở các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng. Thực hiện hiệu quả Quyết định số 263/QĐ-TTG ngày 05-3-2012 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch rà soát thủ tục hành chính trọng tâm năm 2012 trong các lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng.
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… Cần có quy định cụ thể để có thể điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ (kể cả việc lấy phiếu tín nhiệm bất thường). Có quy định cụ thể và thực hiện thống nhất trong cả nước chủ trương không bố trí một số chức danh cán bộ ở cấp tỉnh, cấp huyện là người địa phương. Thực hiện nghiêm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Sửa đổi Luật PCTN và các văn bản liên quan khác để thực hiện việc công khai kết quả kê khai tài sản ở nơi công tác và nơi cư trú theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Từng bước mở rộng diện kê khai và phạm vi công khai kết quả kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên, công chức; quy định về trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 3. Nghiên cứu, quy định việc chủ động kiểm tra, xác minh kết quả kê khai tài sản của cơ quan quản lý cán bộ, công chức đối với những người thuộc quyền quản lý để bảo đảm tính trung thực của việc kê khai. Các bộ, ngành khẩn trương, nghiêm túc xây dựng quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong việc cưới, việc tang, mừng nhà mới, tổ chức sinh nhật, việc nhận bằng cấp, học hàm, học vị, danh hiệu thi đua, khen thưởng.
Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho công chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu bằng lương, sống bằng lương và có mức sống khá trong xã hội. Nghiên cứu, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN, bảo đảm tránh sự chồng chéo và bỏ trống, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ PCTN. Tiếp tục kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình đầu tư xây dựng… phục vụ kịp thời, có hiệu quả việc xử lý tham nhũng. Nghiên cứu thực hiện biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng đối phó của đối tượng có dấu hiệu tham nhũng khi bị thanh tra, kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan chức năng. Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả. Có quy định nhằm hạn chế tối đa việc cho bị can được tại ngoại trong quá trình điều tra về hành vi tham nhũng và việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với đối tượng phạm tội tham nhũng.
Bên cạnh việc tích cực, chủ động phòng ngừa, cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm. Đối với các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, cấp ủy cần chủ động yêu cầu Ban Chỉ đạo PCTN và các cơ quan liên quan báo cáo để cho chủ trương xử lý bảo đảm khẩn trương, đúng quy định của pháp luật.
Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số lĩnh vực trọng điểm như: quản lý sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản; đầu tư, mua sắm công; thu, chi ngân sách; quản lý tài sản công; hệ thống ngân hàng thương mại và công tác cán bộ.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng. Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động và bảo đảm sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử. Xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị PCTN và những người bao che cho tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về THTK, CLP đối với các cơ quan tổ chức sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, gây lãng phí.
Ban Chỉ đạo Trung ương cần phối hợp chặt chẽ với các Ban xây dựng Đảng ở Trung ương để theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc công tác PCTN của các ban cán sự đảng, đảng ủy, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương.
- Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần tăng cường giám sát thường xuyên đối với hoạt động PCTN, LP, trước hết là giám sát hoạt động của các cơ quan có chức năng PCTN, LP, từ đó, yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thực hiện các biện pháp PCTN, LP có hiệu quả. Có biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp hiệu lực cao hơn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, hiệp hội ngành nghề, của cộng đồng và nhân dân trong việc phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng, lãng phí. Ban hành Quy chế nhân dân giám sát tổ chức đảng và đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và có chính sách truyền thông đúng đắn về tình hình tham nhũng, lãng phí và công tác PCTN, LP; phát huy vai trò và trách nhiệm của báo chí trong PCTN, LP.
Khẩn trương cụ thể hóa cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với công tác PCTN, LP.
3. Về “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”
Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao và quyết định về phương án kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương và địa phương:
Ở Trung ương: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, gồm một số đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Bộ Chính trị sẽ cân nhắc, lựa chọn các thành viên khác của Ban Chỉ đạo cho phù hợp, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo (Ban Nội chính Trung ương) về phòng, chống tham nhũng.
Ở địa phương: Không tổ chức Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố về phòng, chống tham nhũng. Tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và có trách nhiệm phối hợp với Ban Chỉ đạo Trung ương khi có các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Thành lập lại Ban Nội chính ở các tỉnh uỷ, thành ủy để tham mưu cho cấp uỷ về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bộ Chính trị sẽ xem xét, quyết định cụ thể theo định hướng của Trung ương.
IV. Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020
Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tuy nhiên cho tới nay, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, kết quả đạt được có mặt còn thấp, chưa bền vững. Nguồn lực cho thực hiện các chính sách xã hội còn hạn hẹp, dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời đã đề ra định hướng phát triển toàn diện các lĩnh vực xã hội. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, phát huy các thành tựu đã đạt được và sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị; hoàn thiện hệ thống thể chế, huy động và cân đối thích hợp các nguồn lực; thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách xã hội để không ngừng nâng cao phúc lợi và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phấn đấu đạt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển xã hội của Nghị quyết Đại hội XI đã đề ra. Các chính sách xã hội sẽ được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thông qua các nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và các chương trình mục tiêu quốc gia.
Về định hướng chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020:
1. Về quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công và bảo đảm an sinh xã hội là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội.
Thứ hai, các chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên đối với người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện; phải bảo đảm công bằng và bền vững có tính chia sẻ giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Thứ tư, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
Thứ năm, tăng cường hội nhập quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
2. Về mục tiêu tổng quát
Tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công và gia đình, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản hoàn thành mục tiêu đảm bảo các gia đình người có công có mức sống tối thiểu bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Đến năm 2020 cơ bản bảo đảm an sinh xã hội bao phủ toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin.
3. Về nhiệm vụ và giải pháp
- Về chính sách ưu đãi người có công
Làm tốt công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công. Tập trung triển khai tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, mở rộng diện thụ hưởng và giải quyết cơ bản những trường hợp còn tồn đọng. Nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công phù hợp với lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu. Đến hết năm 2013, giải quyết cơ bản về nhà ở cho 72 nghìn hộ người có công đang sống trong các nhà xuống cấp cần sửa chữa. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp hơn đối với người có công, gia đình và thân nhân về phát triển sản xuất, việc làm, bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo; quan tâm tu bổ nghĩa trang, tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sỹ. Tăng cường các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nâng cao vai trò và trách nhiệm của xã hội.
- Về bảo đảm an sinh xã hội
Về việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn. Hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững
Về bảo hiểm xã hội: Sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội, trong đó mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đến các doanh nghiệp có quy mô dưới 10 lao động. Hoàn thiện chính sách, tổ chức quản lý và chi trả bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Về trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước.
Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội, mở rộng đối tượng thụ hưởng nâng chuẩn trợ cấp, nghiên cứu xây dựng một gói trợ cấp chung cho các hộ gia đình, người dân thuộc diện thụ hưởng. Tiếp tục phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, bão lụt, bị chết người, mất tài sản được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng.
Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn.
4. Giải pháp chung
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc thực hiện các chương trình, chính sách đối với người có công và bảo đảm an sinh xã hội. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong chỉ đạo và thực hiện.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân, tiếp tục phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, đẩy mạnh các phong trào đền ơn đáp nghĩa, tương thân tương ái, chăm sóc, giúp đỡ người có công, người nghèo.
- Đổi mới quản lý nhà nước về chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trên cơ sở rà soát toàn diện các chính sách hiện hành, điều chỉnh những chính sách bất cập và bổ sung chính sách mới, hướng tới xây dựng hệ thống chính sách vừa hỗ trợ hiệu quả, vừa khuyến khích nỗ lực vươn lên của các đối tượng thụ hưởng, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước. Thống nhất đầu mối quản lý các chương trình, chính sách theo hướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương chỉ quản lý mục tiêu, hướng dẫn thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; địa phương chịu trách nhiệm quản lý nguồn lực, tổ chức thực hiện. Nâng cao năng lực thực thi chính sách của cấp cơ sở. Hiện đại hóa công tác quản lý, phương thức chi trả; xây dựng cơ sở dữ liệu hộ gia đình, mã số cá nhân và bộ chỉ số an sinh xã hội để quản lý, theo dõi, đánh giá việc thực hiện chính sách an sinh xã hội trong từng thời kỳ, xây dựng báo cáo quốc gia về an sinh xã hội.
- Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ nhiều nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
V. Về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”
1. Về đánh giá tình hình và định hướng đến năm 2020
Về đánh giá tình hình
Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công từ năm 2003 tới nay đã từng bước được hoàn thiện, góp phần cải thiện đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu và người có công.
Tuy nhiên, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Tiền lương thấp kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu, người có công và chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ. Tiền lương của một số doanh nghiệp nhà nước cao, chênh lệch bất hợp lý giữa lương của viên chức quản lý với người lao động trong doanh nghiệp và cán bộ, công chức. Giải pháp tạo nguồn cho cải cách tiền lương và trợ cấp xã hội, nhất là khu vực sự nghiệp công chưa đạt yêu cầu.
Về định hướng cải cách chính sách tiền lương đến năm 2020
Cải cách chính sách tiền lương phải có quyết tâm chính trị trong việc ban hành và thực hiện chính sách, nhất là đối với khu vực sự nghiệp công; phải cơ cấu lại ngân sách nhà nước; phải kiểm soát chặt chẽ và phấn đấu giảm đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước; trả lương theo vị trí việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ; quản lý chặt chẽ biên chế gắn với cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy.
- Về mức lương tối thiểu: Điều chỉnh mức lương tối thiểu theo lộ trình gắn với đổi mới hoạt động sự nghiệp, phù hợp với khả năng nền kinh tế để tiến tới bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người hưởng lương. Đối với khu vực doanh nghiệp, thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu nhanh hơn để đến năm 2015 đạt mức nhu cầu tối thiểu. Bộ luật Lao động quy định mức lương tối thiểu để trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất (không qua đào tạo) trong điều kiện lao động bình thường và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác (lao động qua đào tạo).
- Về quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa: Nghiên cứu mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa cho phù hợp với quan hệ thị trường; trên cơ sở đó, thiết kế lại hệ thống thang, bậc lương và tiếp tục hoàn thiện các chế độ phụ cấp cho phù hợp.
- Về thang, bậc lương: Áp dụng một bảng lương chung, yếu tố đặc thù ngành nghề được thực hiện bằng chế độ phụ cấp; đồng thời nghiên cứu để mở rộng khoảng cách giữa các bậc lương cho phù hợp.
- Về các chế độ phụ cấp: Rà soát các chế độ trợ cấp, phụ cấp giữa các ngành, nghề để bảo đảm công bằng, hợp lý; nghiên cứu, rà soát sắp xếp gộp các chế độ phụ cấp (ưu đãi, trách nhiệm theo nghề, công vụ) thành một loại phụ cấp với các mức khác nhau cho phù hợp.
- Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập: Tiếp tục thực hiện khoán biên chế, kinh phí quản lý hành chính. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khóa X; thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị; có lộ trình thích hợp, từng bước tính đúng, tính đủ chi phí trong giá dịch vụ phù hợp với khả năng của nhân dân.
- Về tiền lương đối với viên chức quản lý doanh nghiệp: Quy định khung tiền lương cơ bản có khống chế mức lương tối đa của viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước gắn với kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn.
- Về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ sở: Thực hiện khoán số lượng chức danh, quỹ lương và quỹ phụ cấp đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở, khuyến khích kiêm nhiệm. Xem xét điều chỉnh chế độ cho phù hợp đối với những người hoạt động không chuyên trách. Đồng thời tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX); trên cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng chính sách tổng thể đối với cán bộ, công chức ở cơ sở.
2. Về các giải pháp tạo nguồn
- Thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước để tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương theo hướng ngân sách nhà nước cơ bản đảm bảo nhu cầu kinh phí cho khu vực hành chính, lực lượng vũ trang, phù hợp với khả năng của nền kinh tế; đồng thời thực hiện tiết kiệm tối đa để góp phần tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương.
- Đối với khu vực sự nghiệp công lập, đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính, thực hiện đẩy mạnh xã hội hoá theo lộ trình, bảo đảm phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) và Thông báo số 37-TB/TW ngày 26-5-2011 về thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”.
3. Đối với một số nội dung thực hiện trong năm 2012 và năm 2013
- Thực hiện chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2012 và năm 2013 cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó tập trung xử lý một bước các bất hợp lý trong chính sách tiền lương hiện hành như: chưa bổ sung thêm các loại phụ cấp theo ngành, nghề; sửa đổi phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở cơ sở; sửa đổi chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công; cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Đề án về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đến năm 2020 để trình Hội nghị Trung ương 7, khóa XI./.
TG
Xử lý tốt mối quan hệ giữa thông tin
đối nội và thông tin đối ngoại: trách nhiệm của cơ quan báo chí và người cầm bút
pgs. ts. phạm văn linh
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
1. Về quan hệ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại thông qua hệ thống các cơ quan thông tấn, báo chí
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc tạo dựng hình ảnh của mình bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó hệ thống các cơ quan thông tấn, báo chí là một kênh quan trọng. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, loại hình thông tin này không ngừng mở rộng về phạm vi, tốc độ, hình thức và phương tiện truyền tải thông tin. Hình thức báo viết, báo nói truyền thống được bổ sung nhiều loại hình mới như báo hình, báo điện tử…với công nghệ ngày càng hiện đại. Mỗi người dân, mỗi đối tượng tiếp nhận thông tin có thể tìm kiếm những vấn đề mình quan tâm, trên các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều sự lựa chọn khác nhau. Nhờ đó, giúp họ nâng cao nhận thức, điều chỉnh hành vi, bày tỏ quan điểm, chính kiến đối với các vấn đề, sự kiện đang diễn ra ở trong nước và thế giới, đây cũng là phương thức giải trí hiệu quả đối với mỗi người dân. Các cơ quan thông tấn, báo chí khi làm tốt chức năng, tôn chỉ của mình, chính là cầu nối thông tin của mỗi cá nhân, tập thể, Nhà nước và các quốc gia, là kênh quan trọng quảng bá hình ảnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, gìn giữ truyền thống và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại…
Về nguyên tắc, mỗi cơ quan thông tấn, báo chí đều có tôn chỉ, mục đích và đối tượng độc giả chính, song do sự khác nhau về lịch sử, chất lượng và các điều kiện khác mà quy mô, phạm vi ảnh hưởng, đối tượng quan tâm lại rất khác nhau. Trên thực tế, không ít những cơ quan truyền thông, báo chí có quy mô, phạm vi mở rộng không chỉ trong một nước mà nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, nhiều đối tượng độc giả quan tâm. Xét về nội dung, có loại hình báo chí chuyên sâu từng mảng, từng lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thể thao, giải trí… hoặc theo lứa tuổi, giới tính, thành phần, như thanh thiếu niên, phụ nữ, người cao tuổi, công nhân, nông dân, trí thức, thông tin trong nước, thông tin quốc tế… tạo nên bức tranh đa sắc mầu của hệ thống các cơ quan thông tấn, báo chí trong cả nước. Tuy nhiên, có loại hình báo chí, đặc biệt là các cơ quan thông tấn lại thông tin tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, xét theo thời gian, có loại báo chí phát hành theo ngày, theo tuần, theo tháng, thậm chí theo quý, xong có loại thì cập nhật thường xuyên từng giờ, từng phút nhất là các loại báo điện tử, blog, báo nói, báo hình…Hiện tượng đưa tin lại những thông tin đã sử dụng cũng diễn ra khá phổ biến. Có những thông tin các báo trong nước lấy lại của nhau, hoặc lấy lại của các hãng thông tấn, báo chí lớn của các quốc gia khác. Có những thông tin, các cơ quan báo chí bên ngoài đưa lại thông tin đã được sử dụng từ các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước. Vì thế trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, ranh giới giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại (TTĐN) chỉ là tương đối.
Đối với mỗi quốc gia, TTĐN là việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh của một quốc gia ra bên ngoài, qua đó làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về trong nước nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ từ bên ngoài, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước. Do đó, TTĐN là những thông tin khách quan, trung thực, có chọn lọc, phù hợp từng đối tượng để giúp bạn bè quốc tế hiểu đúng, đầy đủ về tình hình đất nước, những hướng ưu tiên, những vấn đề cần quan tâm để tránh bị xuyên tạc, lợi dụng…
Thông tin đối nội là thông tin cho nhân dân mình, trong quốc gia, lãnh thổ mỗi nước, đó là bức tranh toàn cảnh về mọi mặt của đời sống xã hội hàng ngày, hàng giờ đang diễn ra. Thông tin đối nội tốt cũng trực tiếp bổ sung cho TTĐN. Trên thực tế, do tính chất thương mại hóa, một số người cầm bút, một số tờ báo chỉ thấy lợi ích trước mắt, “lợi ích nhóm” nên chỉ chú trọng khai thác những thông tin giật gân, câu khách, thông tin thỏa mãn sự hiếu kỳ của một nhóm đối tượng, v.v.. miễn sao gây được chú ý để nhiều người quan tâm, bán được nhiều báo, nhiều quảng cáo, thu được nhiều lợi nhuận, trong khi đó nhiều thông tin gương người tốt, việc tốt, thông tin chính luận, khách quan về sự phát triển mọi mặt của đất nước lại ít được khai thác. Cách tuyên truyền như vậy sẽ làm méo mó hiện thực, không có lợi cho việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, nhất là TTĐN.
2. Một số đánh giá về kết quả công tác TTĐN thời gian qua
Việt Nam là một đất nước đi lên từ sau hàng chục năm kháng chiến giành độc lập. Vết thương chiến tranh, sự chống phá từ một số lực lượng thù địch, cơ hội cùng với điểm xuất phát thấp là những khó khăn trong quá trình phát triển, điều đó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác TTĐN. Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện đến nay đã hơn 25 năm. Nhờ phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và được sự đồng tình, ủng hộ to lớn từ quốc tế, nền kinh tế Việt Nam liên tục giữ được mức tăng trưởng khá, đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững, vị thế quốc tế không ngừng được nâng lên. Trong thành tựu chung này có một phần đóng góp tích cực của công tác TTĐN, trong đó các cơ quan thông tấn, báo chí giữ vị trí quan trọng. Nội dung cơ bản của TTĐN nước ta những năm vừa qua là: Thông tin về những chủ trương, đường lối đối mới của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực; thông tin về những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng, thế mạnh của đất nước; về đất nước, con người, truyền thống lịch sử, văn hóa Việt Nam; thông tin cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và thông tin phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta từ Đại hội X đến Đại hội XI cho thấy, công tác TTĐN đã góp phần to lớn vào việc xây dựng hình ảnh Việt Nam ở các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm, nhờ đó đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Tại cuộc điều tra dư luận xã hội do Viện nghiên cứu dư luận xã hội, thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành trong năm 2009, tập trung vào các nhóm đối tượng làm công tác TTĐN ở Trung ương và một số địa phương trọng điểm, cho thấy: Nhóm vấn đề về sự nhìn nhận, đánh giá của dư luận quốc tế về tình hình Việt Nam, được tiếp cận ở 20 lĩnh vực, trong đó có 3 lĩnh vực được báo chí và dư luận quốc tế đánh giá tốt, đó là “Sự ổn định chính trị của Việt Nam”. Có 75% số ý kiến được hỏi đồng tình; “Về đường lối đổi mới và kết quả thực hiện” (61%); “Về quan hệ đối ngoại của Việt Nam” (56%).
Đánh giá về những nỗ lực của công tác TTĐN trong việc thông tin, tuyên truyền về một số chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, qua các số liệu điều tra cho thấy, có 59% số ý kiến đồng tình và đánh giá cao, cho rằng: “Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế”, chủ trương “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực”; chủ trương “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”; chủ trương “Đại đoàn kết toàn dân tộc”, đã được thông tin nhiều với bạn bè quốc tế.
Đánh giá về nỗ lực của công tác TTĐN trong việc thông tin về lập trường kiên quyết bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, không phận, biển, đảo của Đảng, Nhà nước ta, có 58% số người được hỏi cho rằng, TTĐN đã làm tốt vấn đề này. Bên cạnh đó, khi đánh giá về việc phát huy lợi thế của các lực lượng, nhân tố để chuyển tải, cung cấp cho thế giới những thông tin trung thực, chính thống về tình hình Việt Nam, trong số 15 loại hình thông tin chủ yếu, thì các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực được 45% số người được hỏi xếp loại tốt, tức là đứng thứ 2 trong số các loại hình này.
Những thành tựu chủ yếu của công tác TTĐN có thể khái quát ở những điểm chính như sau:
Nội dung thông tin phong phú hơn, phương thức hoạt động đã có sự đổi mới, linh hoạt hơn, bước đầu áp dụng các công nghệ hiện đại trong công tác TTĐN; các lực lượng tham gia công tác TTĐN được tăng cường, ngày càng đông đảo, đa dạng, hoạt động hiệu quả hơn; đối tượng, địa bàn hoạt động TTĐN được mở rộng. Thông tin chính thống từ Việt Nam đến với bạn bè quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển nhanh chóng, đa dạng hơn về nội dung và hình thức. Kết quả nói trên đã góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới; từng bước làm thất bại những âm mưu phá hoại của các thế lực cơ hội, thù địch, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới lãnh thổ; củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế, đẩy mạnh quan hệ kinh tế-thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, khách du lịch quốc tế, khuyến khích, động viên đồng bào ta ở nước ngoài gắn bó với quê hương; đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước. Những kết quả này có sự đóng góp không nhỏ của các cơ quan thống tấn, báo chí và những người làm báo ở Việt Nam.
3. Những vấn đề đặt ra và yêu cầu mới đối với các cơ quan thông tấn, báo chí hiện nay trong xử lý mối quan hệ giữa thông tin đối nội và TTĐN
Về những vấn đề đặt ra:
Một là, thách thức của quá trình hội nhập quốc tế đối với hoạt động TTĐN của các cơ quan thông tấn, báo chí. Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đây là yêu cầu, là vấn đề đặt ra đối với các cơ quan thông tấn, báo chí trước tình hình mới. Hội nhập đòi hỏi thông tin phải đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức, thể loại; đối tượng tiếp nhận mở rộng hơn, các vấn đề được dư luận trong và ngoài nước quan tâm về hình ảnh Việt Nam cũng nhiều hơn, do vậy, từ tình hình hiện nay của các cơ quan thông tấn, báo chí trong hoạt động TTĐN, chắc chắn sẽ đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Tính đa dạng của thông tin cũng là yếu tố thuận lợi, nhưng cũng là môi trường phức tạp, khó kiểm soát trong việc khai thác thông tin, dễ bị lợi dụng, bị xuyên tạc, nhất là với những phần tử cơ hội, thù địch.
Hai là, mối quan hệ giữa cơ quan thông tấn, báo chí hiện có với yêu cầu xây dựng, phát triển một số cơ quan chuyên trách TTĐN trong thời gian tới. Cho đến nay, căn cứ vào Chỉ thị 11 của Ban Bí thư (khóa VII) và Chỉ thị 26 của Ban Bí thư (khóa X), Kết luận số 16- KL/TW ngày 14-2-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020”, lực lượng chủ yếu làm công tác TTĐN hiện nay vẫn là một số cơ quan thông tấn, báo chí hiện có. So với quy mô, phạm vi trong nước thì đây là các cơ quan báo chí lớn, nhưng so với khu vực và thế giới, nhất là về TTĐN, về mức độ chuyên sâu, số lượng ngôn ngữ sử dụng thì còn quá nhỏ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng, phát triển mới chuyên sâu hay sử dụng các cơ quan báo chí hiện có, cả thông tin đối nội và đối ngoại. Cần có cơ chế chỉ đạo thông tin như thế nào để đảm bảo định hướng, hiệu quả, xử lý tốt mối quan hệ giữa thông tin đối nội và TTĐN, đề cao trách nhiệm của mỗi người cầm bút trong vấn đề này?
Ba là, hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn nhiều khó khăn. Những hạn chế, yếu kém nội tại của nền kinh tế trong phát triển tiếp tục bộc lộ, tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống; vấn đề giao thông và ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục, đẩy lùi như mong muốn. Một số bức xúc trong đời sống xã hội của người dân vẫn diễn biến phức tạp, điều này là những hạn chế trong việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra bên ngoài. Thực tế cho thấy, đây là vấn đề rất dễ bị lợi dụng. Ở nước ta hiện nay, những yếu kém trên là có thật, là những hạn chế, thiếu sót trong quá trình phát triển, song Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng, nỗ lực để từng bước khắc phục. Điều đó thể hiện rõ nét sự quyết tâm của Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Song, bên cạnh đó, để có được sự phát triển hôm nay, những kết quả đạt được, những gương người tốt, việc tốt cũng rất nhiều. Người cầm bút, và cơ quan báo chí cần nêu cao trách nhiệm, cần khách quan, vì lợi ích của đất nước, dân tộc, cần thông tin trung thực, tránh bị lợi dụng, ảnh hưởng đến TTĐN.
Bốn là, sự chống phá quyết liệt của các thế lực cơ hội, thù địch vẫn diễn biến phức tạp, tinh vi, thâm độc hơn. Bên cạnh đó, những diễn biến mới về tình hình an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, các xung đột trong khu vực và một số nơi trên thế giới, đặc biệt là vấn đề Biển Đông… đòi hỏi TTĐN và thông tin đối nội phải thực sự linh hoạt, xử lý đúng đắn vấn đề đối tượng, đối tác; vấn đề lợi ích, chủ quyền dân tộc với tạo dựng hình ảnh trong tuyên truyền…
Những yêu cầu mới đối với cơ quan thông tấn, báo chí trong xử lý giữa thông tin đối nội và TTĐN thời gian tới là:
Thứ nhất, phải phục vụ đắc lực và hiệu quả cho việc triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Thông tin đối nội và TTĐN phải chủ động ứng phó với những tình huống phức tạp nảy sinh, xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, tạo được sự đồng thuận trong nước và tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Thứ hai, phải tham gia tích cực và hiệu quả nhất vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phải làm cho bạn bè thế giới hiểu sâu, hiểu đúng về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, về đất nước, lịch sử, con người và văn hóa Việt Nam nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận trong nước và quốc tế đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là vấn đề đòi hỏi thông tin đối nội phải luôn bám sát định hướng, vì lợi ích to lớn, lâu dài của đất nước, tạo sự thống nhất cao ở trong nước, là cở sở để TTĐN được thuận lợi hơn.
Thứ ba, tập trung xây dựng và tiếp tục quảng bá hình ảnh một Việt Nam hòa bình, hữu nghị, đổi mới và hội nhập thành công. Trong bối cảnh mới, hình ảnh của Việt Nam cần được xây dựng từ thành tựu của hơn 25 năm đổi mới; trên nền tảng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; tinh thần độc lập tự chủ, ý chí quật cường vươn lên, sự hòa hiếu, thủy chung của con người Việt Nam; gắn với những đóng góp tích cực, có trách nhiệm của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội; gắn với sức sống năng động, tiềm năng hợp tác của đất nước, là mục tiêu và yêu cầu thông tin đối nội và TTĐN cần hướng tới, giới thiệu hình ảnh một Việt Nam “ổn định, năng động, nhiều tiềm năng và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế”.
Thứ tư, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nội dung, lập luận để kiên quyết đấu tranh, phản bác các thông tin sai trái, làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch sử dụng mặt trận thông tin để chống phá Việt Nam. Đây cũng là yêu cầu và trách nhiệm với mỗi cơ quan báo chí và người cầm bút ở nước ta. Làm tốt vấn đề này đòi hỏi thông tin phải trung thực, cách tiếp cận sự kiện, cách nêu vấn đề phải đứng trên lợi ích lâu dài của đất nước, dân tộc; thông tin mang tính chất xây dựng, nói cái xấu để khắc phục, nêu cái tốt để khuyến khích phát triển./.
Ngành giao thông vận tải với nhiệm vụ xây dựng hạ tầng giao thông theo Nghị quyết Trung ương 4
Đinh La Thăng
Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải
Trong những năm qua, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các quy hoạch phát triển giao thông vận tải (GTVT), kết cấu hạ tầng giao thông (KCHTGT) đã có bước phát triển mạnh mẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển mọi mặt của đất nước.
Tuy nhiên so với nhu cầu, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém, thậm chí cản trở quá trình phát triển của đất nước với nhịp độ tăng trưởng cao hơn.
Trước tình hình đó, Đại hội XI của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, xác định mục tiêu: “Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại; định hướng phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế. Tập trung rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng trong cả nước và trong từng vùng, nhất là giao thông, thủy điện, thủy lợi, bảo đảm sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường”(1).
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16-1-2012 về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Về hạ tầng giao thông, Nghị quyết Trung ương 4 nêu rõ: “Bảo đảm kết nối các trọng tâm kinh tế lớn với nhau và nối các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực vận tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn” (2).
Nhận thức được vai trò của ngành đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngay sau Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Bộ GTVT đã chủ động ban hành quyết định số 560/QĐ-BGTVT ngày 15-3-2012, giao nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị quán triệt và bắt tay ngay vào triển khai thực hiện với những nội dung trọng tâm của ngành:
Trước hết, khẩn trương rà soát các chiến lược, quy hoạch chuyên ngành cho phù hợp với các mục tiêu đã được Nghị quyết 13-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI thông qua. Trên cơ sở đó, xem xét lại các mục tiêu cho từng giai đoạn, từ năm 2015 đến năm 2020, theo hướng tập trung nguồn lực cho các công trình lớn quan trọng có tính đột phá; giãn mục tiêu đưa vào cấp hệ thống KCHT GTVT hiện có, nhưng phải tăng cường công tác quản lý bảo trì để kéo dài tuổi thọ và khai thác hiệu quả toàn hệ thống. Một trong những đề án trọng tâm đang được Bộ GTVT chỉ đạo các cơ quan triển khai, để sớm trình Thủ tướng Chính phủ vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013 là: Điều chỉnh, bổ sung Chiến lược phát triển GTVT đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng 2030; điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt đến năm 2020 và định hướng đến 2030; điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển GTVT đường thuỷ nội địa đến năm 2020 và định hướng đến 2030; quy hoạch phát triển GTVT biển Việt Nam...
Theo hướng đó, ngành GTVT tập trung triển khai xây dựng các đề án và tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng trên các lĩnh vực sau:
Đường bộ: Hoàn thiện Đề án nâng cấp mở rộng quốc lộ 1 lên 4 làn xe với mục tiêu “Hoàn thành toàn tuyến vào năm 2016”; nghiên cứu xây dựng đề án huy động vốn để đầu tư nối thông đường Hồ Chí Minh và nâng cấp đoạn qua Tây Nguyên, trên cơ sở đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành phương thức huy động và cân đối nguồn vốn để triển khai theo đúng tinh thần Nghị quyết. Phối hợp các địa phương triển khai thực hiện đầu tư đường ven biển theo quy hoạch được duyệt; từng bước xây dựng mạng đường bộ cao tốc, trước mắt ưu tiên đầu tư một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam, tuyến nối Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với các cửa ngõ và các đầu mối giao thông quan trọng; phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành khoảng 600 km đường cao tốc.
Đường sắt: Xây dựng quy hoạch chi tiết hiện đại hoá tuyến đường sắt Bắc - Nam hiện có theo tinh thần của Nghị quyết 13-NQ/TW và tiếp tục phối hợp với Nhật Bản nghiên cứu các phương án khả thi đường sắt tốc độ cao để có kế hoạch đầu tư xây dựng phù hợp. Nghiên cứu để có phương án đầu tư mới tuyến đường sắt khổ 1,435m nối TP. Hồ Chí Minh với thành phố Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh đi Cần Thơ làm cơ sở nghiên cứu đầu tư.
Đườâng thuỷ nội địa: Tiếp tục cải tạo, đầu tư nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa chính vào cấp kỹ thuật theo quy hoạch; kết hợp tăng cường công tác quản lý, bảo trì, duy tu nhằm nâng cao khả năng thông qua của cả hệ thống và đảm bảo an toàn giao thông. Đặc biệt chú trọng nâng cấp các tuyến vận tải thủy nội địa tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Bắc Bộ.
Cảng biển: Tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống cảng biển quốc gia, các cảng cửa ngõ quốc tế, các bến cảng nước sâu tại ba vùng kinh tế trọng điểm có khả năng tiếp nhận các tàu container thế hệ mới. Ưu tiên đầu tư đồng bộ, hiện đại hai cảng biển cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng) và cảng Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu); khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong (Khánh Hoà).
Hàng không: Rà soát điều chỉnh kế hoạch phát triển KCHT theo các giai đoạn, trong đó ưu tiên phát triển các cảng hàng không quốc tế như: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cần Thơ, Cam Ranh. Xây dựng kế hoạch chi tiết đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành để có thể khai thác sau khi cảng hàng không Tân Sơn Nhất bị mãn tải.
Giao thông đô thị: Phát triển hợp lý hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị và vận tải công cộng. Đối với các thành phố lớn, phát triển mạnh hệ thống xe buýt; nhanh chóng đầu tư xây dựng các tuyến vận tải công cộng khối lượng lớn như đường sắt trên cao và tầu điện ngầm tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, trước mắt ưu tiên các tuyến tại Hà Nội (Ngọc Hồi-Yên Viên, Nhổn-ga Hà Nội, Nam Thăng Long-Thượng Đình) và TP. Hồ Chí Minh (Bến Thành-Tham Lương...).
Giao thông nông thôn: Phát triển đường giao thông nông thôn cho phương tiện giao thông cơ giới tới tất cả trung tâm xã hoặc cụm xã, đảm bảo thường xuyên thông suốt. Tỷ lệ mặt đường cứng, rải nhựa đạt 60 đến 80%. Chú trọng phát triển giao thông đường thủy nội địa, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Để hoàn thành những mục tiêu đã đề ra và phát triển ngành GTVT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, Bộ GTVT tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, đối với quản lý đầu tư xây dựng
Phối hợp, tham gia với các bộ, ngành trong việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, Luật Đô thị, các luật khác có liên quan và các văn bản dưới luật để tạo thuận lợi cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Tiếp tục nghiên cứu mở rộng các hình thức huy động vốn từ nhiều nguồn để đầu tư phát triển KCHT GTVT. Hoàn thiện và tổ chức triển khai Đề án quỹ bảo trì đường bộ, rà soát các mức phí, lệ phí có liên quan để kiến nghị các cấp, ngành điều chỉnh cho phù hợp, đặc biệt mức thu phí trên các tuyến quốc lộ.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, khắc phục phiền hà và giảm chi phí cho các nhà đầu tư.
Phối hợp với Bộ Xây dựng hoàn thiện các văn bản quản lý pháp luật để đổi mới cơ chế quản lý đầu tư xây dựng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng; nâng cao quản lý chất lượng công trình, hệ thống định mức, đơn giá, chế độ lập và duyệt dự toán trong công tác quản lý chất lượng công trình giao thông.
Tăng cường kiểm tra, giám sát các công trình, dự án đầu tư bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư xây dựng của các doanh nghiệp thuộc Bộ theo thẩm quyền.
Thứ hai, về quản lý kết cấu hạ tầng
Nghiên cứu đề xuất sửa đổi hoặc ban hành mới một số cơ chế về quản lý kết cấu hạ tầng giao thông và xây dựng Đề án xã hội hoá quản lý khai thác kết cấu hạ tầng giao thông.
Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông, chú trọng công tác bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, đầu mối, đường cao tốc, quốc lộ, đường sắt Bắc Nam; nạo vét, duy tu hàng hải tại các tuyến luồng trọng điểm...
Xây dựng Đề án Thống kê dữ liệu KCHT giao thông; đánh giá tài sản KCHT giao thông đường bộ làm cơ sở quản lý và khai thác có hiệu quả KCHT giao thông hiện có.
Thứ ba, về phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực
Xây dựng và hoàn thiện các quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế – kỹ thuật.
Tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực ngành GTVT giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành GTVT giai đoạn 2011-2015.
Với những giải pháp trên, trong quá trình triển khai thực hiện, ngành GTVT sẽ có những giải pháp và bước đi cụ thể phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Đồng thời dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, sự ủng hộ của các ngành, các cấp, đặc biệt là các doanh nghiệp và nhân dân, Bộ GTVT sẽ phấn đấu thực hiện thắng lợi những mục tiêu, định hướng phát triển nhanh KCHT đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông mà Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đã đề ra./.
-----------------------
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H, 2011, tr.104, 117, 118.
(2) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI, Nxb.CTQG, H, 2012, tr.110.
Vận dụng những kinh nghiệm bước đầu
để đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị
PGS. TS. Ngô Văn Thạo
Ngày 16-5-2012 tại Hà Nội, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 03 ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư đã chỉ ra những kết quả chủ yếu, những hạn chế, yếu kém, những kinh nghiệm bước đầu; xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chỉ thị trong thời gian tới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, chỉ đạo việc tiếp tục triển khai thực hiện quả Chỉ thị.
Nghiên cứu những kinh nghiệm thu được trong một năm qua, quán triệt sự chỉ đạo của Tổng Bí thư để triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị trong giai đoạn hiện nay là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.
1. Về các kinh nghiệm sau một năm triển khai thực hiện Chỉ thị, Báo cáo và các tham luận tại Hội nghị đã thống nhất nêu lên 6 điểm nổi bật là:
Trước hết, nhận thức của cấp ủy các cấp, nhất là của người đứng đầu, về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu, nội dung, trách nhiệm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu và là nguyên nhân thành công của nhiều địa phương, đơn vị.
Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị đã khẳng định sự cần thiết và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Bác trở thành công việc thường xuyên trong mỗi tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong mỗi cán bộ, đảng viên, công chức. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” xác định tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là giải pháp hàng đầu trong nhóm giải pháp về chính trị, tư tưởng. Bởi vậy, việc xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, của cán bộ chủ chốt các cấp, của Ban thường vụ cấp ủy và người đứng đầu chủ động, sáng tạo trong xây dựng chương trình, kế hoạch, chỉ đạo thực hiện, lôi cuốn cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia là nguyên nhân trực tiếp của việc triển khai có hiệu quả Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị. Thực tế, ở nơi nào cấp ủy quán triệt kỹ nội dung, tinh thần của Chỉ thị, có sự thống nhất cao trong cấp ủy về trách nhiệm triển khai, thì kết quả thực hiện tốt hơn.
Hai là, trong quá trình thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị cần có sự chủ động, sáng tạo trong cách làm, phù hợp với điều kiện cụ thể của ngành, địa phương.
Ở các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nơi nào căn cứ vào hướng dẫn, định hướng chung của Trung ương, chủ động tìm ra những cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của mình thì đạt hiệu quả thiết thực hơn và được mọi người thừa nhận. Một kinh nghiệm là cần phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ phận giúp việc cấp ủy; coi trọng công tác tham mưu, đề xuất của các ban đảng và các cơ quan chuyên môn; chú trọng tính đồng bộ, toàn diện, đồng thời cần chọn các đơn vị để chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm, nhân ra diện rộng, chọn vấn đề, chọn công việc để tập trung chỉ đạo..., tạo ra chuyển biến, nâng cao niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Ba là, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên với xây dựng cơ chế, quy định trách nhiệm thực hiện của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong thực hiện Chỉ thị.
Đẩy mạnh tuyên truyền về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, nâng cao nhận thức và ý thức tự giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời rất cần ban hành các quy định, quy chế để tổ chức việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thiết thực. Đó là sự kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức; giữa động viên sự tự giác với sự giúp đỡ, quản lý, kiểm tra, giám sát của tập thể với mỗi cá nhân; của nhân dân với cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.
Kịp thời phát hiện và tuyên truyền các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, tạo sự lan tỏa trong Đảng và xã hội; kết hợp với việc rà soát, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong từng cơ quan, đơn vị. Điều đó có tác dụng trực tiếp đến việc đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên.
Bốn là, gắn việc triển khai thực hiện Chỉ thị với thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Để từng bước đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên, quan trọng phải gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, với các phong trào thi đua yêu nước của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, thực hành các chuẩn mực đạo đức để đánh giá cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.
Năm là, phát huy vai trò nêu gương, xây dựng quy chế nêu gương của cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là của người đứng đầu.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu gương là một trong những nguyên tắc thực hành đạo đức. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm quy định nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt sẽ giúp triển khai thực hiện Chỉ thị trong từng cơ quan, đơn vị tốt hơn. Các quy định nêu gương được công bố công khai trong đơn vị, với các nội dung cụ thể về tinh thần trách nhiệm trong công tác, kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy dân chủ, chống đặc quyền, đặc lợi, tiết kiệm trong sử dụng tài sản công, nêu gương trong việc cưới, việc tang... để cấp dưới và nhân dân tham gia giám sát việc thực hiện. Cán bộ nêu gương sẽ chủ động và có “uy” để lãnh đạo, chỉ đạo tập thể thực hiện tốt, thực hiện nghiêm hơn việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Sáu là, coi trọng công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
Trong năm qua, riêng Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tổ chức 12 đoàn đi kiểm tra giám sát ở nhiều tỉnh, thành phố, đảng bộ trực thuộc Trung ương. Các nơi được kiểm tra đều có sự chuyển biến tích cực hơn sau khi kiểm tra. Ở các cấp, cấp ủy cũng có các hoạt động kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị của cấp dưới, duy trì các chế độ giao ban, sơ kết đánh giá định kỳ; chỉ đạo việc tự kiểm tra và nền nếp báo cáo.
Việc tổ chức thực hiện có hiệu quả sự giám sát của tổ chức đảng, các cơ quan pháp luật, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với cán bộ, đảng viên, trước hết là đối với người đứng đầu, cơ quan, đơn vị trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đã nêu rõ: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở các cấp.
2. Quán triệt, tạo sự thống nhất cao về nội dung bài phát biểu Kết luận Hội nghị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Trong bài phát biểu Kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu và trả lời ba câu hỏi: học Bác cần học gì, học như thế nào và làm thế nào để bảo đảm việc thực hiện Chỉ thị 03 ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả hơn.
Về nội dung học gì, Tổng Bí thư yêu cầu cần và phải học tấm gương sáng Hồ Chí Minh về mọi mặt. Cả cuộc đời Bác là biểu tượng cao đẹp về ý chí cách mạng kiên cường; tinh thần độc lập tự chủ; lòng yêu nước, thương dân; trí tuệ anh minh, mẫn tiệp, có tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; tác phong, phong cách khiêm tốn, giản dị; tấm lòng nhân hậu, tình cảm chan chứa yêu thương con người; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc… Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và cả cuộc đời của của Người là kết tinh những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa thế giới, vì vậy cần phải nghiên cứu và học tập, học mãi, học suốt đời.
Học Bác, trong giai đoạn hiện nay là cần giữ gìn phẩm chất chính trị, kiên định lý tưởng cách mạng, con đường cách mạng, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tinh thần lạc quan, tin tưởng, phẩm chất kiên cường bất khuất "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục". Học Bác ở đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, học về tư cách người cách mạng, đặc biệt là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù ở trong mỗi con người, đấu tranh với cái ác, nâng cái thiện lên để giảm cái ác đi... Học Bác ở phong cách, lối sống giản dị, khiêm tốn, thanh bạch, gần dân, không quan liêu, quan cách, từ việc ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc, quan hệ với nhân dân... Học ngay trong cách học, trong thái độ đối với việc học; trong cách nói, cách viết, cách làm, cách đối nhân xử thế, cách làm công tác đối ngoại... Cần phải học đi, học lại những điều Bác nói, Bác viết, Bác làm.
Học Bác như thế nào, là cần học suốt đời, học hằng ngày, thiết thực, thiết thân, là việc làm tự giác của mỗi người, mỗi tổ chức, không ai có thể làm thay được. Học Bác bằng nhiều hình thức, phong phú, sinh động: Học qua sách báo, ở trường, lớp; qua thực tiễn công việc, trường đời; qua sinh hoạt chi bộ đảng, đoàn thể, ở cơ quan, trong gia đình; tự phê bình và phê bình; qua mạn đàm, trao đổi kinh nghiệm; qua phong trào thi đua người tốt, việc tốt, nêu gương những điển hình tiên tiến, phê phán những việc làm xấu, tiêu cực... Học Bác qua các hình thức sinh hoạt tập thể, như: chào cờ đầu tuần, tham quan du lịch về nguồn, di tích lịch sử, đăng ký chương trình công tác, qua sự giám sát, góp ý của nhân dân, của báo chí, công luận... Rất nhiều hình thức, nhiều con đường để học Bác, khi lòng ta trong sáng, thật lòng muốn học Bác.
Vậy làm thế nào? Theo Tổng Bí thư, để bảo đảm việc thực hiện Chỉ thị 03 ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn, cần xác định rõ vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua các chương trình kế hoạch hành động cụ thể; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; qua các phong trào thi đua thiết thực, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các tấm gương người tốt, việc tốt, dùng cái tốt để dẹp cái xấu; gắn với việc thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, Quy định về những điều đảng viên không được làm, thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, phải bắt đầu từ những việc rất cụ thể, từ đó tạo chuyển biến tích cực trên thực tế. Cần phát huy vai trò của Bộ phận giúp việc, nhất là khi cấp ủy còn rất nhiều việc phải làm.
3. Thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư, phát huy những kinh nghiệm đã thu được, trong thời gian tới việc triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị cần tập trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất, cấp ủy các cấp tập trung chỉ đạo đưa việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành sinh hoạt thường xuyên, quan trọng của các chi bộ, đảng bộ, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", liên hệ với tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm.
Thứ hai, ban thường vụ cấp ủy, đồng chí bí thư, với sự tham mưu của bộ phận giúp việc, trực tiếp chỉ đạo việc rà soát, xây dựng và tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng chi bộ, cơ quan, đơn vị theo yêu cầu của Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị 1973/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, gắn với Quy định về những điều đảng viên không được làm. Mỗi cán bộ, đảng viên đăng ký phấn đấu thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực đạo đức đã xây dựng, báo cáo trong chi bộ nơi mình sinh hoạt. Cuối năm, lấy kết quả phấn đấu theo các chuẩn mực đạo đức, cũng như kết quả thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, là một tiêu chí bình xét thi đua, khen thưởng, đánh giá kết quả phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân và tập thể.
Thứ ba, ởÃ các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, ban thường vụ cấp ủy, ban lãnh đạo và đồng chí bí thư cấp ủy, người đứng đầu chỉ đạo lựa chọn một số vấn đề bức xúc thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống để chi bộ, đảng bộ bàn biện pháp phấn đấu, khắc phục, tạo chuyển biến, đẩy lùi, tiến tới giải quyết dứt điểm trong một thời hạn nhất định. Có sơ kết, đánh giá những chuyển biến, mức độ khắc phục, đẩy lùi tiêu cực và đề ra kế hoạch cho thời gian tiếp theo.
Thứ tư, cấp ủy, lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị tăng cường kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị. Làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân tiêu biểu, điển hình, thực hiện Chỉ thị một cách sáng tạo, thiết thực và hiệu quả. Kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc, làm lướt, hoặc thiếu quan tâm, triển khai hình thức. Hằng năm, cấp ủy, lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch kiểm tra, đôn đốc; sơ kết, đánh giá việc thực hiện kế hoạch này trong kiểm điểm công tác cuối năm. Nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong việc thực hiện các nội dung mà Chỉ thị của Bộ Chính trị đã đề ra, cũng như thực hiện các chuẩn mực đạo đức, Quy định về những điều đảng viên không được làm và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Thứ năm, chú trọng công tác phát hiện, tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhân rộng những điển hình tập thể, cá nhân tiên tiến, những cách làm hay, sáng kiến tốt. Kịp thời biểu dương, động viên những nhân tố tích cực, đồng thời phê phán, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, lệch lạc, nói không đi đôi với làm, tạo ra không khí phấn khởi, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng, thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh./.
Những đòi hỏi khách quan
tiếp tục sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
GS. TS. trần ngọc đường
Văn phòng Quốc hội
Đánh giá đúng đắn vai trò của Hiến pháp năm 1992 và bàn về những đòi hỏi khách quan cần phải tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực trong việc chỉ đạo quá trình sửa đổi và bổ sung Hiến pháp năm 1992 đang tiến hành ở nước ta. Nhân kết thúc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa XI), xin có một số suy nghĩ bàn về vai trò của Hiến pháp năm 1992 và những đòi hỏi đặt ra phải sửa đổi, bổ sung:
Một là, Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý cao nhất cho sự ra đời và hoàn thiện pháp luật về kinh tế - phương tiện đặc biệt quan trọng trong việc xoá bỏ các quan hệ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng quan hệ kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, có sự quản lý của nhà nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp tuyên bố: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)” (Điều 15); “kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh” (Điều 21); “doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật” (Điều 22); “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá” (Điều 23); “Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá” (Điều 25); “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sự dụng ổn định, lâu dài” (Điều 18). Dựa vào các quy định nền tảng đó, hàng loạt các đạo luật, bộ luật mới về kinh tế - dân sự - lao động lần lượt ra đời, như Bộ luật Dân sự (năm 1995 và 2005); Bộ Luật Lao động (năm 1995, 2003, 2006), Luật Doanh nghiệp (năm 1999, 2003, 2006), Luật đầu tư (2005), Luật Thương mại (năm 1997, 2005) và hàng chục đạo luật, bộ luật khác. Cần khẳng định rằng không có những tư duy pháp lý mới về kinh tế của Hiến pháp năm 1992 làm nền tảng, không thể có sự đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kinh tế, không thể tạo lập được một trật tự các quan hệ kinh tế mới làm chỗ dựa vững chắc cho đổi mới các yếu tố của thượng tầng kiến trúc, giữ vững sự ổn định và phát triển xã hội. Không dựa trên những quy định gốc về chế độ kinh tế của Hiến pháp năm 1992, không thể xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế - dân sự - lao động đồng bộ và thống nhất như hiện nay. Nhờ có các quy định nền tảng về kinh tế của Hiến pháp năm 1992, pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật về kinh tế nói riêng thực sự trở thành một lực lượng vật chất góp phần xây dựng và phát triển kinh tế nước nhà trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong thời kỳ đầu đổi mới, tư duy kinh tế thị trường, hội nhập và mở cửa chưa có những nhận thức sâu sắc như hiện nay nên không tránh khỏi một số quy định không còn phù hợp với các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định. Những vấn đề sẽ được quy định làm rõ trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung dựa trên các quan điểm do các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra như: Thế nào là một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN? Quyền làm chủ của nhân dân trong kinh tế, trong quản lý, phân phối và sở hữu như thế nào? Vai trò của nhà nước và của thị trường ra sao?...
Thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những năm đổi mới chỉ ra rằng những vấn đề xã hội như giáo dục, văn hoá, khoa học công nghệ, y tế, môi trường… có quan hệ mật thiết không tách rời. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Cần phải phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các vấn đề xã hội, môi trường, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội”. Vì vậy, gắn kết những vấn đề kinh tế với những vấn đề xã hội trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này cũng là một đòi hỏi khách quan cần được quan tâm.
Hai là, Hiến pháp năm 1992 - nền tảng chính trị - pháp lý cho việc đề cao và phát huy nhân tố con người trong đời sống nhà nước và xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành riêng một điều nói về quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Việc ghi nhận một điều nói về quyền con người với tư cách là một quy định chung trước khi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản, Hiến pháp năm 1992 thể hiện một bước tiến mới về tư duy lý luận và sự kế thừa một cách sâu sắc giá trị tiến bộ của tư duy chính trị - pháp lý của nhân loại.
Phải thừa nhận rằng cá nhân con người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, có những quyền cơ bản xác định. Việc thừa nhận các quyền này đã được cộng đồng loài người ghi nhận trong nhiều công ước quốc tế. Cá nhân con người chính là giá trị, giá trị con người không tách rời với giá trị của loài người, tạo thành một thể thống nhất, hoàn chỉnh. Chính vì thế mà cộng đồng quốc tế (trong pháp luật quốc tế) và các quốc gia riêng biệt (trong pháp luật của một nước) đều ghi nhận và bảo vệ các giá trị con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận khái niệm “quyền con người” với nội dung chính trị pháp lý rộng hơn, để phản ánh giá trị của cá nhân con người trong mối quan hệ với một nhà nước nhất định, lẫn giá trị tổng hợp được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Khái niệm quyền con người với quan niệm như vậy được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là chiếc cầu nối tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, đảm bảo và tăng cường hiệu lực thực hiện các quyền con người một cách mạnh mẽ hơn bằng cả hệ thống pháp luật quốc gia lẫn pháp luật quốc tế. Như vậy, khái niệm “quyền con người” không loại trừ khái niệm “quyền công dân” và cũng không thay thế nó được. Hiến pháp năm 1992 vừa ghi nhận quyền con người, lại vừa ghi nhận quyền công dân để vừa nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và cá nhân con người, lại vừa tạo nên sự thống nhất giữa luật quốc gia và luật quốc tế về giá trị của con người, từng bước xoá bỏ quan niệm “khép kín” pháp luật quốc gia trên lĩnh vực này. Ghi nhận quyền con người không tách rời quyền công dân, điều đó chỉ ra rằng, nội dung cơ bản của quyền con người ở mỗi quốc gia chính là quyền công dân. Vì thế, Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Các quyền con người… thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Hiến pháp năm 1992 còn có một quy định pháp lý mới có tính nền tảng chỉ đạo hoạt động lập pháp của nhà nước là: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Điều 51). Điều quy định mới này thể hiện thái độ trân trọng và đề cao các quyền con người, quyền công dân của nhà nước Việt Nam. Đó là các giá trị của xã hội mà nhà nước phải có nghĩa vụ thể chế bằng Hiến pháp và các đạo luật là những hình thức pháp lý cao nhất. Nhờ đó, mà các giá trị của xã hội với tư cách là các quyền của con người, quyền công dân tồn tại một cách ổn định, được thừa nhận và bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Do đó, một mặt cá nhân con người phải nhận thức sâu sắc rằng khi các giá trị xã hội với tư cách là các quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp và luật quy định, đó là các quyền và nghĩa vụ cao quý, công dân phải tôn trọng và có ý thức thực hiện. Và mặt khác, về phía nhà nước phải đề cao trách nhiệm tìm tòi, khám phá, phát hiện nhu cầu và giá trị xã hội với tư cách là các quyền và nghĩa vụ để sớm thể chế và ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật. Bằng quy định đó ngăn ngừa các cá nhân, tổ chức và cơ quan tuỳ tiện đặt ra các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Với những tư duy chính trị - pháp lý nói trên, Hiến pháp năm 1992 trong chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã có bước phát triển trong việc thể chế và ghi nhận các quyền về chính trị, quyền tự do cá nhân, các quyền về kinh tế, các quyền của người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Theo đó, hàng loạt các quy định đề cao và phát huy nhân tố con người được thể chế hoá trong các bộ luật, đạo luật. Các quyền về chính trị được đổi mới và hoàn thiện trong các Luật Bầu cử, Luật Tổ chức… Các quyền về kinh tế - dân sự - lao động được đổi mới trong các Bộ Luật dân sự, Lao động, Doanh nghiệp… Các quyền tự do bất khả xâm phạm về thân thể, cư trú, đi lại được đổi mới và quy định trong Bộ Luật hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự, Luật Cư trú… Các quyền về tự do ngôn luận, báo chí được thể chế và ghi nhận trong Luật Báo chí, Luật Xuất bản… và nhiều văn bản luật khác. Có thể nói các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận đã từng bước được thể chế hoá qua hoạt động lập pháp của Quốc hội, tạo thành một hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân Việt Nam mang tính chất dân tộc và quốc tế sâu sắc, không thua kém hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản được Hiến pháp và các luật của các nước phát triển ghi nhận.
Tuy nhiên, trước những thành tựu và điều kiện mới về đảm bảo quyền con người, quyền công dân và những nhận thức mới, sâu sắc hơn trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề quyền con người, quyền công dân đòi hỏi phải tiếp tục thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện hơn các nội dung, quan điểm mới trong Cương lĩnh và các văn kiện của Đảng. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến các quan điểm: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc sự phát triển của mỗi người” (1). “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” (2). “Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết” (3). Vì vậy, một mặt, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung phải tiếp thu những nhận thức mới về quyền con người, quyền công dân; mặt khác, cần thể hiện cho phù hợp với vị trí và vai trò của nó trong một bản Hiến pháp của nhà nước pháp quyền XHCN.
Ba là, Hiến pháp năm 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, thuật ngữ nhà nước pháp quyền XHCN được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp: “Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” (Điều 2). Cùng với việc khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp năm 1992 còn nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta như: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Điều 2); “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN” (Điều 12); “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4). Dựa vào tư duy lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN và các nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước, bộ máy nhà nước ta tiếp tục được cải cách, đổi mới một bước. Quốc hội một thiết chế dân chủ đại diện ngày càng hoạt động thực quyền, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Các cơ quan hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ không ngừng được cải cách để trở thành bộ máy quản lý đất nước ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, trong sạch và minh bạch. Các cơ quan tư pháp đang tích cực cải cách để tăng cường lòng tin của nhân dân vào cán cân công lý, vào sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền.
Tuy nhiên, dưới ánh ánh sáng Đại hội XI của Đảng, các quan điểm mới đã được bổ sung và phát triển trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (4); “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” (5); “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản… Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội…” (6). Để tiếp thu các quan điểm mới trên, đòi hỏi phải thể chế hoá sâu sắc hơn nữa nội hàm của nhà nước pháp quyền XHCN trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung. Hiến pháp năm 1992, mới chỉ quy định nguyên tắc chung về phân công, phối hợp mà chưa xác định được rõ ràng cơ quan nào là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nên chưa phân định được đầy đủ, đúng đắn, minh bạch về chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền của mỗi cơ quan. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước cũng chưa được quy định trong Hiến pháp.
Hiến pháp là báu vật của quốc gia, đòi hỏi phải bảo vệ và giữ gìn một cách hữu hiệu. Bởi vì, bảo vệ Hiến pháp chẳng những là bảo vệ vai trò to lớn của Hiến pháp, mà điều có ý nghĩa lớn lao hơn là bảo vệ sự ổn định của một trật tự pháp lý quốc gia, bảo vệ những ý tưởng, những giá trị chính trị pháp lý tốt đẹp nhất của một nhà nước. Đó cũng chính là bảo vệ ý chí và nguyện vọng tối cao của nhân dân được kết tinh trong Hiến pháp. Tuy nhiên, xét về phương diện bảo vệ mình, thì bản thân Hiến pháp năm 1992 chưa đề ra được cơ chế bảo vệ. Đành rằng, bảo vệ Hiến pháp là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và công dân đã được Hiến pháp quy định. Nhưng theo kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia và thực tiễn bảo vệ Hiến pháp của nước ta trong thời gian qua chỉ ra rằng, muốn bảo vệ Hiến pháp một cách hữu hiệu cần phải có cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách để tài phán các vi phạm Hiến pháp. Chính vì thế Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ ra rằng cần phải: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” (7).
Nhìn vào tổ chức và phân công quyền lực nhà nước ở nước ta theo Hiến pháp năm 1992, còn bộc lộ một số khiếm khuyết nếu xem xét từ cơ chế bảo vệ Hiến pháp:
Thứ nhất, trong cơ chế bảo vệ Hiến pháp của nước ta nói chung, của Hiến pháp 1992 nói riêng, thì Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân - có chức năng lập pháp, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, nhưng lại chưa có cơ chế giám sát bản thân Quốc hội một cách hữu hiệu nhằm đảm bảo cho chính Quốc hội làm đúng, làm đủ các quy định của Hiến pháp.
Quốc hội cũng như các thiết chế khác của bộ máy nhà nước đều là những thực thể sống, trong tổ chức và hoạt động của mình không tránh khỏi những sai sót, nhất là những sai sót trong việc thực hiện chức năng lập pháp. Những sai sót này như V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh không kém phần nguy hại so với các sai sót trong hoạt động hành pháp và hoạt động tư pháp. Vì thế, Hiến pháp năm 1992 phải được bổ sung cơ chế chuyên trách thực hành nhiệm vụ giám sát hoạt động của Quốc hội, để đảm bảo cho hết thảy mọi cơ quan, mọi cá nhân có quyền trong bộ máy nhà nước đều chịu sự giám sát. Đó là một đòi hỏi và cũng là một đặc điểm không kém phần quan trọng của nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 tại Điềìu 84 (khoản 9) quy định: Quốc hội thông qua hoạt động giám sát tối cao có quyền bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng chịu sự giám sát khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội. Song trên thực tế, Quốc hội chưa tài phán được một văn bản quy phạm pháp luật dưới luật nào trái Hiến pháp và Luật. Rõ ràng cơ chế bảo vệ Hiến pháp này không hợp lý và không hiệu quả.
Thứ ba, trong cơ chế phân công quyền lực nhà nước ở nước ta, Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan Thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp - được giao nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh. Việc giải thích Hiến pháp nhằm bảo đảm sự thống nhất và ổn định trong cách hiểu về nội dung và ý nghĩa của các quy phạm Hiến pháp là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng để bảo vệ Hiến pháp. Tiếc rằng, nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp bằng giải thích Hiến pháp ở nước ta trong thời gian qua còn hạn chế. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, việc giải thích Hiến pháp cần được giao cho một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp gắn với các vụ việc cụ thể và theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền do luật định.
Từ ba khiếm khuyết nói trên, thiết nghĩ cần sớm bổ sung cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách, để bảo vệ báu vật của quốc gia một cách hữu hiệu hơn, phát huy mạnh mẽ vai trò là nền tảng chính trị pháp lý của Nhà nước và xã hội./.
------------------------
(1) (2) (3) (4), (5) (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 85, 100, 239, 85, 85, 88.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr. 127.
Công tác cán bộ
trong xây dựng Đảng hiện nay
pgs. ts. đàm đức vượng
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đề cập nhiều vấn đề xoay quanh công tác xây dựng Đảng. Trong bốn nhóm giải pháp quan trọng thực hiện Nghị quyết, có nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. Trong nhóm giải pháp này, Đảng ta chỉ rõ: “Làm tốt kiểm điểm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp ủy, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới”. Trong công tác tổ chức cán bộ, việc kiểm điểm, xem xét, đánh giá, sàng lọc cán bộ luôn được Đảng ta quan tâm. Muốn thực hiện sàng lọc đội ngũ cán bộ được tốt, phải qua ba công đoạn: đánh giá cán bộ; sàng lọc cán bộ; sắp xếp lại đội ngũ cán bộ.
1. Đánh giá cán bộ theo quan điểm nhận thức mới
Đánh giá cán bộ là khoa học tâm lý về xem xét, nhìn nhận con người. Vì vậy, nó rất hệ trọng đối với cuộc đời người cán bộ. Hiện nay, ngoài việc tổ chức, lãnh đạo đánh giá cán bộ thường niên, đánh giá cán bộ trước khi bổ nhiệm, đánh giá cán bộ trong sinh hoạt đảng, việc tự phê bình thể hiện sự tự đánh giá của người cán bộ, và phê bình, thể hiện sự đánh giá của người cán bộ, đảng viên này đối với người cán bộ, đảng viên khác. Nhưng cũng nảy sinh tình trạng đánh giá tùy tiện ở ngoài cuộc họp, chẳng dựa trên những tiêu chí, nguyên tắc nào. Đó là sự đánh giá thiếu văn hóa, chủ quan, duy ý chí của người này đối với người kia, xúc phạm đến danh dự của con người, thiếu tình đồng chí và tình người.
Trong một số văn kiện của Đảng đã đề cập vấn đề đánh giá cán bộ. Nhưng trong tình hình mới, cũng cần phải định lại tiêu chí đánh giá cán bộ, bảo đảm tính khách quan, tính cụ thể, tính trung thực, tính lương tâm, tính danh dự, đặc biệt là tính phát triển của người cán bộ. Một con người trong quá khứ họ xấu, nhưng nay họ đã trở thành người tốt. Một con người trong quá khứ họ tốt, nhưng nay họ lại không tốt. Tình trạng này diễn ra hằng ngày trong đội ngũ cán bộ của chúng ta. Hiện nay, việc đánh giá cán bộ, tuy đã có quy định, nhưng có cấp lãnh đạo, có lúc, có nơi, vẫn còn theo cảm tính, yêu ghét cá nhân, chủ quan, mà chưa dựa trên cơ sở lý tính, khách quan. Sự định kiến trong đánh giá cán bộ vẫn chưa được loại trừ.
Đánh giá cán bộ, chung quy lại, thường được thể hiện trên hai mặt:
Đạo đức của người cán bộ: Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không loại trừ một lĩnh vực nào. Những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau, đối với tất cả và không chịu sự ra lệnh của ai. Việc thực hiện các yêu cầu của đạo đức được thể hiện ở sự tác động tinh thần. Điều này quy định vai trò của ý thức trong đạo đức tương đối lớn hơn so với các hình thức kiểm tra khác của xã hội. Uy tín đạo đức của cá nhân người cán bộ góp phần làm cho Đảng thêm trong sạch, vững mạnh.
Đánh giá về mặt đạo đức của người cán bộ thể hiện ở việc tán thành hay lên án những hiện tượng khác nhau của đời sống và những hành vi của con người. Sự đánh giá chung về mặt đạo đức của người cán bộ thể hiện ở cái lòng nhân và cái bất nhân, thiện và ác. Cơ sở của sự đánh giá về mặt đạo đức của người cán bộ là việc nhận thức được ý nghĩa xã hội khách quan của các hành vi của người cán bộ, trên cơ sở đó có thể điều chỉnh hành vi cư xử của người cán bộ; đồng thời, phải tính đến những động cơ cũng như những hậu quả của các hành vi đó.
Tài năng người cán bộ: Đánh giá tài năng người cán bộ phải xem xét các mặt lý luận gắn với thực tiễn, nói và làm, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn, biết nhìn xa trông rộng, dám quyết và quyết đúng, giỏi ngoại ngữ, giỏi tin học, biết cách thu phục nhân tâm, có mối quan hệ lành mạnh và không vụ lợi trong quan hệ.
Những người có tài phải là những người không cơ hội, sống trung thực, có năng lực thực sự, có tâm, có đức; sống dựa vào chính năng lực của bản thân mình, chứ không phải dựa vào cái bóng của người khác, tự phấn đấu vươn lên và tự khẳng định được mình.
Kết quả cao nhất để đánh giá những người có tài năng phải được thể hiện ở những công trình nghiên cứu khoa học, công trình văn hóa, những cuốn sách có giá trị, những kịch bản phim, kịch bản sân khấu, kịch bản múa, bản nhạc, bài thơ, tiểu thuyết, truyện hay, những bài báo đặc sắc, những bức họa, phù điêu, bản thiết kế kiến trúc tuyệt vời, những giọng hát tuyệt hay, những đạo diễn, diễn viên đặc biệt nổi tiếng, những nhà hùng biện, những nhà hoạch định chính sách tài ba, những người dùng người giỏi,… Đối với người lãnh đạo, quản lý được đánh giá là những người có tài năng thực sự, phải xem người đó có để lại dấu ấn gì trong nhiệm kỳ công tác của mình, có đáng được ghi nhận hay không. Đã có người lãnh đạo khi đương chức thì uy quyền, uy thế, ban phát bổng lộc, nhưng khi “hạ cánh” thì chẳng để lại một dấu ấn gì đáng nhớ, bị lịch sử vượt qua và người đời nhanh chóng lãng quên. Những người như thế, rõ ràng không phải là những người tài, mà là những người gặp may.
Đạo đức và tài năng của người cán bộ hợp thành phẩm chất người cán bộ.
Việc đánh giá cán bộ chỉ có thể đúng khi không định kiến hay cảm tình cá nhân, yêu thì đánh giá tốt, ghét thì đánh giá xấu, mà phải căn cứ vào kết quả công việc và chất lượng công việc được giao.
Một vấn đề đặt ra là ai đánh giá cán bộ? Theo quy trình hiện nay là cấp ủy và cấp lãnh đạo có thẩm quyền, gọi chung là cấp trên, là những người được đánh giá cán bộ. Nếu chỉ theo quy trình này là chưa đủ, mà cần phải được bổ sung, không chỉ cấp trên, mà cấp dưới, đảng viên thường và quần chúng nơi công tác cũng có thể được đánh giá cán bộ, kể cả cán bộ cấp trên. Phải mở rộng dân chủ trong khi đánh giá cán bộ. Mỗi người cán bộ cũng có thể tự đánh giá mình.
Phương pháp đánh giá cán bộ: Phương pháp tốt nhất để đánh giá cán bộ là phải xét trong mối liên hệ biện chứng, giữa quá khứ và hiện tại, từ đó mà xét đoán tương lai của người cán bộ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng, cách tốt nhất để đánh giá cán bộ là khi xem xét cán bộ không chỉ xem xét ngoài mặt, mà còn phải xem xét tính chất của họ; không chỉ xem một việc, một lúc, mà phải xem xét lịch sử, xem xét công việc của họ. Nhận xét cán bộ không chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ toàn bộ công việc của họ. Những người chịu khó làm việc, làm việc có phương pháp, sáng tạo, hiệu quả, làm đến đâu gọn đến đấy, không khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình là những cán bộ tốt.
Phương pháp chỉ đúng khi nào chúng ta nhận biết được thực chất của tư duy, tư tưởng, ý thức của con người. Chúng ta dùng quy luật của lôgic để nhận ra những người thực sự có tài năng. Sức mạnh của phương pháp chính là ở chỗ biết cách nhìn nhận đúng bản chất của con người, thể hiện sự hoạt động hằng ngày của những con người đó. Địa vị thống trị của phương pháp nhìn nhận, đánh giá con người chính là do trình độ tri thức của người lãnh đạo, quản lý và những người tham mưu quyết định. Phương pháp nhìn nhận, đánh giá con người có tài hay không phải là phương pháp thực tiễn - lôgic, chứ không phải phương pháp siêu hình, chủ quan duy ý chí. Muốn có trình độ, phương pháp thực tiễn - lôgích trong việc nhìn nhận, đánh giá để sử dụng con người một cách chính xác, phải có trình độ khoa học nhận thức cao, thể hiện ở phương pháp động, chứ không phải phương pháp tĩnh. Phương pháp động thể hiện ở các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, con người đều không có cái gì là bất biến, vĩnh cửu, không có cái gì bao giờ cũng nguyên vẹn; rằng, mọi cái trong tự nhiên, xã hội, con người luôn luôn ở trong trạng thái biến hóa, phát triển và liên hệ lẫn nhau. Đó là lôgích của phương pháp đánh giá cán bộ.
2. Sàng lọc cán bộ theo quan điểm nhận thức mới
Đánh giá cán bộ một cách đúng đắn chính là chiếc chìa khóa để sàng lọc cán bộ. Sau khi biết rõ người cán bộ qua phân tích, đánh giá, nhà lãnh đạo và nhà tổ chức tiến hành sàng lọc cán bộ. Trong hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội đã chứng minh là trong đội ngũ của chúng ta có nhiều cán bộ tốt. Nhưng bên cạnh đó, cũng có không ít những cán bộ xoàng và cán bộ xấu, cán bộ thoái hóa, biến chất. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có sự sàng lọc như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ghi rõ. Muốn sàng lọc cán bộ, phải có sự phân loại cán bộ. Cấp ủy có thẩm quyền là những người chịu trách nhiệm chính trong việc phân loại cán bộ. Muốn vậy, người sàng lọc lại phải biết cách sàng lọc, và trước hết, cấp ủy hãy tự sàng lọc lấy mình.
Trong việc sàng lọc, phải nhận diện cho được những người thực sự có tài, có đức và những người cơ hội. Thực tiễn đã chứng minh những người cơ hội là những phần tử tài giả. Trong cuộc sống và trong công tác, những người cơ hội thường có những biểu hiện sau đây: loại cơ hội chính trị; loại cơ hội tham vọng chức quyền và các tham vọng cá nhân khác; loại cơ hội thực dụng; loại cơ hội trung dung; loại cơ hội bè cánh; loại cơ hội thiển cận, hẹp hòi; loại cơ hội quan liêu; loại cơ hội xa dân, xa rời thực tế; loại cơ hội đối phó; loại cơ hội giả dối, tốt mồm, xấu bụng. Có loại cán bộ “tài” tới mức bằng cách nào họ cũng có thể lách được. Họ nói: “Trên có chính sách, dưới có đối sách, đối sách giỏi hơn chính sách”.
Trong tình hình hiện nay ở các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể, cấp ủy và lãnh đạo có thể biết rõ khả năng của từng cán bộ. Biết vậy, nhưng giải quyết đối với loại cán bộ kém năng lực vẫn đang là một sự lựa chọn khó khăn của cấp lãnh đạo và những người làm công tác cán bộ. Vì vậy, quan điểm mới của việc sàng lọc cán bộ là phải dựa vào các tiêu chí: người lãnh đạo và cấp ủy cơ quan, đơn vị phải có sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về vấn đề sàng lọc cán bộ, phải khách quan trong việc sàng lọc; từng cơ quan, đơn vị phải tổng kết công tác cán bộ của cơ quan, đơn vị mình, trên cơ sở đó mà sàng lọc cán bộ; phải bám sát hiệu quả và hậu quả công việc của từng cán bộ trong cơ quan, đơn vị mình để sàng lọc cho đúng; phải định rõ tiêu chuẩn người tài, đức; phải có sự phân biệt chân, giả của từng người cán bộ; không nên lẫn lộn đúng, sai, chân, giả, đừng để lọt một ai và bỏ sót một ai.
3. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ theo quan điểm nhận thức mới sau khi đã sàng lọc
Sau khi đánh giá đúng, sàng lọc tốt, thì tiến hành sắp xếp lại đội ngũ cán bộ. Sắp xếp lại xong, thì tiến hành bồi dưỡng và đào tạo đối với những cán bộ có triển vọng để sau khi đào tạo xong, có thể đưa người cán bộ đó vào diện quy hoạch, phát triển. Bồi dưỡng thì có bồi dưỡng thêm về kiến thức và đào tạo thì có đào tạo mới, đào tạo lại về chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa, ngoại ngữ, tin học; đào tạo ở trong nước và đào tạo ở nước ngoài. Ý thức tự bồi dưỡng, tự rèn luyện, tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người cán bộ là rất quan trọng. Trong lịch sử Đảng ta, có những nhà lãnh đạo như Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… không hề qua một lớp đào tạo chính quy nào, mà chỉ tự rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên trong hoàn cảnh nghiệt ngã, tự học tập (kể cả học tập khi ngồi tù trong nhà tù thực dân, đế quốc), chịu khó suy ngẫm, nâng cao trình độ và đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng. Tư duy của những đồng chí này là tư duy kiên trì, sáng tạo.
Sau khi sàng lọc, những người không đủ năng lực, trình độ, kể cả việc cho đi đào tạo lại, cũng không có khả năng vươn lên, thì phải giải quyết bằng nhiều biện pháp, trong đó, có biện pháp là chuyển họ sang làm các công việc khác thích hợp hơn, như các việc hành chính đơn thuần, công tác đoàn thể, để cho họ tự tìm việc, chuyển sang công tác khác,…
Tuyển dụng cán bộ vào làm việc trong các cơ quan công quyền, cũng cần phải có sự sàng lọc kỹ, phải dựa hẳn vào phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, bằng cấp chuyên ngành, thi tuyển hẳn hoi; không nên đưa những người thân, quen, năng lực kém vào làm việc trong các cơ quan công quyền.
Trong bổ nhiệm và sử dụng cán bộ, thì có bố trí, sắp xếp sao cho hợp lý; chọn những người năng lực và đạo đức thực sự, vượt trội để giữ những vị trí công tác khác nhau, nhất là bố trí cán bộ ở tầm chiến lược.
Trước khi bổ nhiệm cán bộ, một lần nữa, phải xem lại công tác của họ, sinh hoạt của họ, ưu điểm đến đâu, khuyết điểm đến đâu, sở trường, sở đoản ra sao, tất cả đều phải rõ ràng, có như vậy, mới bổ nhiệm đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực”(1).
Bất kỳ loại cán bộ nào cũng cần phải có chính sách cán bộ phù hợp, chủ yếu là các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với các loại, các cấp cán bộ khác nhau; cũng phải tính đến cán bộ miền xuôi, miền ngược. Các chính sách về công tác cán bộ phải bảo đảm tính công bằng, minh bạch. Đó là động lực thúc đẩy đội ngũ cán bộ tích cực phấn đấu vươn lên, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Muốn làm tốt công tác cán bộ, một vấn đề đặt ra là phải đổi mới cán bộ lãnh đạo, xem đây là mắt xích quan trọng nhất để đổi mới công tác cán bộ như Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nhận định. Cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ lãnh đạo ở cấp cao nhất, phải là những người tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, lương tâm, danh dự của Đảng, của dân tộc. Những cán bộ này, nếu không hội đủ được những tiêu chuẩn trên, thì rất khó lãnh đạo được đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời mong muốn Đảng và Nhà nước phải hết lòng, hết sức chăm lo đào tạo một đội ngũ cán bộ phụ trách có ý chí, có tài năng, có đạo đức, có tinh thần làm việc và kinh nghiệm công tác. Muốn vậy, người phụ trách đào tạo đội ngũ cán bộ phải là những chuyên gia đánh giá, chuyên gia phán đoán, chuyên gia tâm lý giỏi, những người “thợ giỏi” trong việc dùng người theo tiêu chí “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Hy vọng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” sẽ tạo được sự chuyển biến mới trong công tác cán bộ, trong việc sàng lọc đội ngũ cán bộ để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh./.
--------------------
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr. 282.
Vai trò của nghiên cứu dư luận xã hội đối với hoạt động của Quốc hội
ThS. Đỗ Thị Thanh Hà
Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Quốc hội có các chức năng rất quan trọng như lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Để làm tốt chức năng này, đòi hỏi trước hết đối với Quốc hội là Quốc hội phải có năng lực nắm bắt kịp thời, chính xác và đầy đủ (cả dưới góc độ định tính cũng như định lượng) tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri. Việc tổ chức cung cấp thông tin nói chung và thông tin từ các cuộc điều tra dư luận xã hội nói riêng phục vụ các đại biểu Quốc hội sẽ góp phần bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của đại biểu mà Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã quy định, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Cơ cấu của Quốc hội được thiết định trên cơ sở tính toán đến tính đại diện của tất cả các giai tầng, nhóm xã hội. Điều này, trong một chừng mực nhất định, cho phép Quốc hội có thể nắm bắt được tiếng nói, tâm tư, ý chí, nguyện vọng của từng giai tầng, nhóm xã hội nói riêng, cũng như của tất cả các giai tầng, nhóm xã hội nói chung. Tuy nhiên, những thông tin về tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri mà Quốc hội có được thông qua phản ánh của các đại biểu Quốc hội, do nhiều nguyên nhân, nhiều khi chưa thật đầy đủ và chính xác cả về mặt định tính cũng như định lượng. Một trong những nguyên nhân đó đôi khi là do cách thức tiếp xúc cử tri. Bởi vì, không phải tất cả các bộ phận trong nhóm cử tri mà đại biểu Quốc hội đại diện cho họ đều có lợi thế, có cơ hội như nhau trong việc tham gia các buổi tiếp xúc với đại biểu Quốc hội. Tình trạng các đại biểu Quốc hội chỉ được bố trí gặp gỡ với các “đại cử tri”, là lãnh đạo địa phương và những người đại diện cho các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội hoặc cán bộ hưu trí, người cao tuổi... trong các cuộc tiếp xúc cử tri vẫn diễn ra ở một số địa phương.
Bên cạnh đó, còn có những nguyên nhân khác khiến việc nắm bắt ý kiến cử tri của đại biểu Quốc hội ngày càng trở nên khó khăn, khó đầy đủ, chính xác. Ví dụ, trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN lại chưa hoàn thiện như hiện nay, thì tình trạng phân hóa về lợi ích, về nhận thức và gắn liền với nó là sự phân hóa về tâm trạng, về tư tưởng đang diễn ra gay gắt không chỉ trong xã hội nói chung mà còn ngay cả trong từng giai tầng, từng nhóm xã hội nói riêng. Không hiếm trường hợp, đại biểu Quốc hội chỉ nắm được luồng ý kiến này mà không nắm được luồng ý kiến khác trong nhóm cử tri mà mình đại diện.
Quốc hội còn có những cách thức khác để nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của cử tri như thông qua báo cáo tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp nhân dân của Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan của Quốc hội.... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, ngoài cách thức nắm bắt và tổng hợp thông tin chưa thực sự khoa học, còn có nguyên nhân khá phổ biến khác, đó là “bệnh thành tích”, nên không ít trường hợp, thông tin trong các báo cáo này còn thiếu độ tin cậy. Không ít nơi, báo cáo về tâm tư, nguyện vọng, ý chí của cử tri theo con đường từ dưới lên trên không đáng tin cậy do “căn bệnh thành tích”: những biểu hiện tâm trạng phức tạp, “không thuận” của cử tri thường bị “cắt gọt”, “vo tròn”; những biểu hiện tâm trạng tư tưởng tích cực, thuận chiều thường bị tô hồng, phóng đại.
Để khắc phục những khiếm khuyết của các phương thức nắm bắt tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri, Quốc hội nên chăng có thêm các thiết chế nắm bắt khác, đặc biệt là thiết chế điều tra dư luận xã hội. Điều tra dư luận xã hội là thiết chế nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của các giai tầng, nhóm xã hội đáng tin cậy nhất hiện nay mà từ lâu, các nước phát triển đã sử dụng.
Như chúng ta đã biết, cách thức nắm bắt tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri đầy đủ nhất, chính xác nhất chính là trưng cầu dân ý. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi sự chi phí rất lớn về thời gian, tiền bạc và nhân lực.
Điều tra dư luận xã hội là một kỹ thuật thu thập, tìm hiểu tâm tư, ý chí, nguyện vọng của các nhóm xã hội thông qua việc phát phiếu hỏi điều tra tới một nhóm (mẫu) được chọn theo những cách thức nhất định, có tính đại diện cho một tổng thể. Nhờ áp dụng các thành tựu của toán học, của xã hội học và tâm lý học, phương pháp điều tra dư luận xã hội có khả năng nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của cử tri chính xác như hoặc gần như phương pháp trưng cầu dân ý. Song, thay vì phải hỏi ý kiến tất cả cử tri (trên phạm vi toàn quốc, đó là hàng chục triệu người), thay vì phải chi rất nhiều tiền (hàng chục tỷ) và phải mất nhiều thời gian như cuộc trưng cầu dân ý, điều tra dư luận xã hội chỉ cần thực hiện với vài ba nghìn cử tri, trong một thời gian ngắn (một vài tháng), chi phí cho việc điều tra thấp, nhưng kết quả thu được cũng có giá trị tương tự như là kết quả trưng cầu dân ý.
Tuy nhiên, điều tra dư luận xã hội là một công việc đòi hỏi sự hiểu biết sâu các kiến thức khoa học như các kiến thức về xây dựng phiếu hỏi, chọn mẫu điều tra, xử lý thông tin sơ cấp…. Phiếu câu hỏi dùng trong điều tra dư luận xã hội phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về độ ổn định (còn gọi là độ tin cậy) và độ hiệu lực. Phiếu câu hỏi phải thiết kế sao cho các kết quả “đo đạc” không bị biến dạng do tác động của các yếu tố thời gian và ngoại cảnh (đảm bảo yêu cầu về độ ổn định). Phiếu câu hỏi phải mang lại chính những thông tin mà chúng ta muốn thu thập (đảm bảo yêu cầu về độ hiệu lực). Mẫu điều tra phải có tính đại diện cao (phải được chọn theo các cách thức chọn mẫu khoa học). Ngay khâu điều tra trên thực địa, cán bộ điều tra thực địa cũng phải là người am hiểu công việc, có kỹ năng tiếp xúc, phỏng vấn đối tượng. Cán bộ làm công tác điều tra dư luận xã hội cũng cần phải biết sử dụng thành thạo các phần mềm xử lý thông tin, dữ liệu (ví dụ: sử dụng phần mềm SPSS…). Nếu không có những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sâu sắc nói trên, kết quả điều tra dư luận xã hội có thể sai lệch, thậm chí rất lớn và không đáng tin cậy. Quốc hội cần sử dụng các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học có uy tín về điều tra xã hội học để nắm bắt tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri.
Trong những năm gần đây, điều tra dư luận xã hội đã trở thành một kênh cung cấp thông tin tham khảo rất hữu ích về tâm tư, ý chí và nguyện vọng của cử tri cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong quá trình xây dựng, thảo luận, thông qua các quyết sách hay văn bản pháp luật. Nhờ phản ánh khách quan, trung thực và khả năng dự báo chính xác tình hình tâm trạng, tư tưởng, thái độ, nguyện vọng của các tầng lớp xã hội trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo, quản lý đất nước, các báo cáo điều tra dư luận xã hội là căn cứ thông tin quan trọng giúp Quốc hội xây dựng và ban hành các quyết sách, các văn bản pháp luật hợp lòng dân. Kết quả nghiên cứu dư luận xã hội sẽ giúp Quốc hội và các cơ quan lãnh đạo, quản lý giải đáp các câu hỏi như: các vấn đề bức xúc mà thực tiễn đất nước (hoặc ở địa phương, ngành) đòi hỏi Quốc hội phải giải quyết là gì? Các chủ trương, quyết sách, quy định pháp luật dự định được ban hành của Quốc hội có được người dân ủng hộ không? Nếu không thì tại sao? Có cần dừng việc thông qua không? Nếu không dừng thì cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền cụ thể gì để tạo sự ủng hộ của nhân dân?... Ví dụ: Trong năm 2007, Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội đã tiến hành cuộc điều tra dư luận xã hội về “Thực trạng việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị có liên quan đến thủ tục hành chính của công dân”. Kết quả cho thấy những bức xúc lớn của nhân dân về vấn đề này là sự nhũng nhiễu, gây phiền hà của cán bộ các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các công việc như "cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất"; "cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà ở"; "giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân". Bên cạnh đó, cuộc điều tra cũng làm rõ được các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến những hạn chế, yếu kém trong việc giải quyết các thủ tục hành chính của cơ quan chức năng như: 1) "Người dân thiếu thông tin, kiến thức về các thủ tục hành chính và quy trình giải quyết"; 2) "Bản thân các thủ tục hành chính còn phiền hà, không phù hợp với thực tiễn"; 3) "Các quy định trong việc giải quyết các thủ tục hành chính chưa cụ thể và thiếu nhất quán"; 4) "Sự hạn chế về trình độ, kỹ năng của cán bộ trực tiếp giải quyết các thủ tục hành chính"; 5) "Công tác kiểm tra, giám sát hiệu quả thấp".
Điều tra dư luận xã hội còn là một trong những phương thức phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tạo điều kiện cho người dân có cơ hội để bày tỏ chính kiến, tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp vào quá trình hoạch định chính sách hay xây dựng các văn bản pháp luật. Đồng thời góp phần nâng cao ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của người dân. Đây là một trong những yếu tố tinh thần quan trọng, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Để Quốc hội thực sự trở thành cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, việc tăng cường các hoạt động nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội là việc làm cần thiết. Đây cũng là một yêu cầu cần đặt ra trong việc đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội./.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử
nguyễn minh huế
Tính từ thời điểm Tạp chí Quê hương – tờ báo điện tử đầu tiên của Việt Nam được đưa lên mạng internet vào ngày 31-12-1997, đến nay, hệ thống báo mạng điện tử ở nước ta đã và đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 3-2012, cả nước có 61 báo, tạp chí điện tử, hơn 1000 trang thông tin điện tử đang hoạt động. Với những ưu thế vượt trội của mình về khả năng đa phương tiện, tính tức thời và phi định kỳ, tính tương tác, báo mạng điện tử đang thực sự trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với công chúng.
Trong các đặc trưng của báo mạng điện tử, người ta thường đề cập và nhấn mạnh tới tính tương tác cao như một đặc điểm nổi bật.
1. Theo “Từ điển từ và ngữ tiếng Việt” thì tương tác là “sự tác động qua lại, có ảnh hưởng lẫn nhau giữa các đối tượng người hoặc vật”.
Tương tác có vai trò rất quan trọng trong hoạt động truyền thông nói chung và hoạt động báo chí nói riêng. Nếu như với các loại hình báo chí truyền thống, đặc trưng tương tác chủ yếu được xem xét ở góc độ sự tác động qua lại giữa cơ quan báo chí, người viết báo và người tiếp nhận thông tin, thì đối với các Tòa soạn báo mạng điện tử, việc tận dụng lợi thế về tính tương tác không những đưa người đọc vào thế giới thông tin một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất, mà còn tạo điều kiện cho họ tham gia vào quá trình cung cấp thông tin, thu hẹp dần khoảng cách giữa nhà báo, tờ báo và bạn đọc. Tương tác trong hoạt động báo chí của báo mạng điện tử đã ngày càng phát triển theo xu hướng mở rộng hơn, phong phú, đa dạng, thân thiện và hiệu quả hơn rất nhiều so với báo chí truyền thống.
Internet và nhiều tiện ích của nó cho phép tòa soạn tổ chức nhiều phương thức, nhiều công cụ hỗ trợ tương tác với bạn đọc. Hệ thống thư điện tử (E - Mail) giúp người đọc có thể góp ý, phản hồi, thắc mắc…trực tiếp đến địa chỉ mail của mỗi cơ quan báo chí. Các box phản hồi (Comment) đặt ngay dưới nội dung các bài viết. Thông qua các ý kiến nhận xét, bình luận, góp ý, tòa soạn có thể định hướng thông tin tuyên truyền, phát hiện ra vấn đề hoặc tiếp tục đi sâu vào các nội dung mà bạn đọc quan tâm, thắc mắc. Các cuộc giao lưu, bàn tròn trực tuyến (online seminars) đã tạo cơ hội để nhiều bạn đọc cùng lúc có thể tham gia đặt câu hỏi, bày tỏ chính kiến của mình đối với nhân vật về vấn đề quan tâm. Các diễn đàn mở góp phần thu hút sự quan tâm, cùng trao đổi, góp phần tạo ra sự liên kết chặt chẽ, đa chiều giữa tòa soạn với độc giả, giữa độc giả với nhau. Phản hồi qua đường dây nóng, qua đường thư tín vẫn phát huy hiệu quả đối với báo mạng điện tử. Bình chọn, thăm dò dư luận để thu thập thông tin về nhiều vấn đề, lĩnh vực, về chính tờ báo mạng mà bạn đọc đang truy cập.
2. Hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử có vai trò rất quan trọng đối với mỗi tòa soạn báo và đối với công chúng.
Đối với mỗi tòa soạn báo, hoạt động tương tác góp phần giúp các cơ quan báo chí nói chung, mỗi nhà báo nói riêng hiểu hơn về công chúng và nhu cầu, thị hiếu của họ.
Từ những con số cập nhật về số lượng truy cập trên mỗi chuyên trang, chuyên mục, với từng bài viết; từ phản hồi, góp ý “hay – dở”, thông tin đúng – sai, bổ sung thông tin; từ kết quả thăm dò dư luận về trang báo, bài viết; từ những thông tin riêng về mỗi bạn đọc qua E - Mail…đã mang đến cho cơ quan báo chí những dữ liệu khá đầy đủ về đặc điểm nhu cầu, trình độ, sở thích của từng nhóm đối tượng công chúng. Trên cơ sở đó, cơ quan báo chí điều chỉnh, bổ sung, thay đổi về nội dung, hình thức, mức độ thông tin, góp phần đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, thu hút và tạo dựng lòng tin với họ.
Ví dụ: khi sự kiện sóng thần ở Nhật Bản xảy ra, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, báo điện tử Dân trí đã ngay lập tức chuyên mục Thông tin tìm kiếm người thân tại Nhật Bản. Với thế mạnh về khả năng tương tác cao, chuyên mục này đã trở thành cầu nối để độc giả tìm kiếm, liên lạc với người thân tại Nhật Bản sau thảm họa động đất, sóng thần.
Bên cạnh đó, hoạt động tương tác mang đến cho cơ quan báo chí một lượng thông tin rộng lớn, có giá trị đặc biệt từ phía bạn đọc. Phóng viên có thể kiểm định dựa trên việc nắm thông tin cá nhân do bạn đọc cung cấp, sau đó tự tìm hiểu và kiểm tra tính đúng đắn của thông tin, hoặc tiếp tục đề nghị bạn đọc cung cấp thêm thông tin, từ đó có thể sử dụng thông tin này một cách hiệu quả nhất.
Đối với công chúng, hoạt động tương tác giúp họ “gần” hơn với cơ quan báo chí.
Họ được bày tỏ quan điểm, cung cấp thông tin, góp ý kiến phản hồi ngay sau khi bài báo được đưa lên mạng internet. Thay vì phải chờ đợi, họ được sự phúc đáp gần như ngay lập tức của cơ quan báo chí, chí ít là bằng thông tin tự động “Tòa soạn đã nhận được góp ý của bạn” ngay sau khi họ phản hồi. Điều này đã làm cho bạn đọc báo mạng điện tử cảm thấy gần gũi, thân thiện hơn với tờ báo.
Đặc biệt trong xã hội thông tin ngày nay, xu hướng phát triển chính phủ điện tử đã, đang phát triển mạnh ở nhiều quốc gia. “Cuộc sống số” và các giao dịch điện tử trên mạng là xu hướng tất yếu hiện nay. Ở nước ta, trong những năm gần đây, với hình thức diễn đàn trực tuyến, tòa soạn đã trở thành cầu nối để công chúng đối thoại trực tiếp với nhân vật. Thực chất đây là mối quan hệ tương tác ba chiều (hoặc đa chiều) trên báo mạng điện tử. Đa số bạn đọc thích thú với việc tham gia các diễn đàn này, bởi họ được đặt câu hỏi về vấn đề mình quan tâm và được trả lời trực tiếp bởi nhân vật tham gia đối thoại. Không phải không có lý do khi các cuộc đối thoại trực tuyến với các thành viên của Chính phủ trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trong thời gian gần đây luôn thu hút lượng lớn bạn đọc truy cập và đặt câu hỏi trực tiếp với các Bộ trưởng.
Bên cạnh đó, ở một số tờ báo mạng điện tử, bạn đọc đã trở thành những người góp phần xây dựng nên một phần chuyên mục trong tờ báo, tham gia vào quá trình tác nghiệp báo chí. Ví dụ: Báo Tuổi trẻ online, chuyên mục Bạn đọc làm báo đã và đang thu hút một lượng lớn bạn đọc tham gia cộng tác. Ghi nhận những đóng góp quý báu của bạn đọc, bắt đầu từ năm 2011, báo Tuổi Trẻ hàng tháng đã tiến hành trao giải thưởng “Làm báo cùng Tuổi Trẻ” dành cho bạn đọc đã cung cấp thông tin (hoặc viết bài cộng tác) nhanh nhạy, thiết thực, hiệu quả xã hội cao.
Thực tế hiện nay, mỗi tờ báo, luôn dựa trên những thế mạnh riêng của mình để khai thác, tận dụng những hoạt động tương tác điển hình, hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử vẫn còn nhiều hạn chế. Một số báo mạng điện tử chưa thể hiện rõ vai trò quản lý, tính định hướng thông tin trong các hoạt động tương tác. Nhiều diễn đàn, câu lạc bộ bạn đọc do thiếu vai trò “nhạc trưởng” – người “gác gôn” góp phần định hướng nên nhiều thành viên tham gia đã lợi dụng diễn đàn để đưa những quan điểm cá nhân lệch lạc, thậm chí khích bác, đả kích quá đà đối với vấn đề, vụ việc hoặc cá nhân; đi sâu vào các chủ đề không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc…tạo nên dư luận xã hội xấu.
Việc tiếp nhận thông tin phản hồi chưa được chú trọng. Do lượng thông tin phản hồi lớn, liên tục trong ngày trên nhiều kênh, nên dẫn đến sự quá tải trong xử lý thông tin, tiếp nhận thông tin và hồi đáp với bạn đọc. Nhiều bạn đọc không thiết tha với việc phản hồi, góp ý vì ý kiến của mình không biết được tòa báo chấp nhận đến đâu. Việc “bỏ rơi” ý kiến của bạn đọc góp ý còn phổ biến ở một số tòa báo.
Một số lãnh đạo tòa soạn báo và đội ngũ phóng viên, biên tập viên còn chưa coi trọng vai trò hoạt động tương tác, chưa thấy rõ mối quan hệ giữa hoạt động tương tác với công tác nghiệp vụ của phóng viên.
3. Để báo mạng điện tử có thể tận dụng hơn nữa lợi thế của tính tương tác, thiết nghĩ, cần chú trọng một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mỗi tòa soạn báo mạng điện tử cần xây dựng một bộ phận tiếp nhận phản hồi chuyên nghiệp. Có thể nói bộ phận này nắm toàn bộ các hoạt động giao tiếp trên mạng internet đối với độc giả.
Nhiệm vụ chính của họ là tiếp nhận toàn bộ các thông tin phản hồi từ công chúng, thông qua những hình thức tương tác khác nhau như đã nói ở trên. Trên cơ sở hệ thống thông tin phản hồi ấy, cần phân loại rõ: ý kiến phản hồi, thông tin thêm, hoặc cung cấp thông tin mới. Việc hồi âm cho bạn đọc bằng E - Mail hoặc trên phần thông tin tòa soạn cần phải được quan tâm đặc biệt. Việc thiếu coi trọng thông tin do bạn đọc cung cấp, hồi âm không đầy đủ sẽ dẫn tới việc bạn đọc chán nản, tự xa rời tờ báo và tất yếu tòa soạn mất dần độc giả.
Định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm, trên cơ sở hệ thống thông tin phản hồi của bạn đọc, bộ phận này có thể đánh giá hiệu quả của hoạt động tương tác trên sản phẩm báo chí của mình, đề xuất các hướng hoàn thiện tờ báo theo nhu cầu thông tin và góp ý của bạn đọc. Đây sẽ là những cơ sở thực tiễn quan trọng, góp phần hoàn thiện chiến lược của tờ báo mạng điện tử.
Yêu cầu nhân lực của bộ phận này phải là những người am hiểu về hoạt động báo chí, có thể đồng thời là phóng viên, biên tập viên, có kỹ năng sử dụng công nghệ thành thạo. Có như vậy, họ mới có khả năng phân tích, tổng hợp thông tin, vấn đề, xử lý thông tin theo hướng tăng hiệu quả cho Tòa soạn báo. Bên cạnh đó, họ chính là “bộ lọc” thông tin trước khi thông tin phản hồi được đưa lên mạng, tránh những trường hợp “lọt” thông tin trái thuần phong mỹ tục, sai tôn chỉ mục đích của tờ báo, gây dư luận xấu trong xã hội, nhất là đối với các diễn đàn của bạn đọc trên báo mạng điện tử.
Thứ hai, các báo mạng điện tử khi thiết kế, xây dựng giao diện, cần chú ý đến khả năng tương tác với công chúng.
Việc bố trí các yếu tố quan trọng liên quan đến hoạt động tương tác trên trang chủ như: địa chỉ liên lạc, số điện thoại, đường dây nóng; vị trí mục bình chọn, mục thăm dò ý kiến, mục mời bạn đọc tham gia giao lưu trực tuyến…cần đặt ở vị trí dễ nhìn, diện tích không quá bé so với trang chủ của báo. Ngay cả các yếu tố nhỏ như phông chữ, đường link, cỡ chữ, màu nền…cũng cần được cân nhắc và chú ý, vì nó góp phần không nhỏ trong việc lôi cuốn bạn đọc tiếp nhận thông tin và phản hồi.
Thứ ba, nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về vai trò quan trọng của hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử. Với các Tòa soạn báo mà người đứng đầu quan tâm đến công chúng của mình, đầu tư hiệu quả cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động tương tác của tờ báo, chủ động cung cấp thông tin, làm chủ thông tin, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, chắc chắn, sẽ thu hút lượng lớn công chúng đến với tờ báo.
Thứ tư, chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp của đội ngũ phóng viên, biên tập viên. Đây là những người trực tiếp làm nên các sản phẩm báo chí; rồi cũng chính họ lại tiếp thu, phân tích ý kiến bạn đọc để liên tục hoàn thiện thông tin, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của công chúng./.