Triết lý giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Có thể tiếp cận vấn đề này ở một số nội dung sau:
- Dân chủ và công bằng là những đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã hội, bởi vậy cần phải được coi là những nguyên tắc chủ chốt của giáo dục Việt Nam (GDVN), cần được tuân thủ nghiêm túc trong việc ban hành chủ trương, chính sách về giáo dục cũng như trong tổ chức, quản lý, hoạt động giáo dục và tinh thần dân chủ, công bằng cần được phản ánh trong nội dung, phương pháp giáo dục.
GDVN là nền giáo dục nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tạo môi trường trao đổi, thảo luận thẳng thắn, không mang tính áp đặt, nhất là đối với những vấn đề liên quan đến sự quan tâm và lợi ích chung của xã hội, cộng đồng, tập thể.
Dân chủ nhà trường dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch, đảm bảo cung cấp thông tin về chính sách và hoạt động của nhà trường một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời cho người học và xã hội, tạo điều kiện để nhân dân kiểm tra và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với nhà trường.
Công bằng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Công bằng trong giáo dục có nghĩa là công bằng trong thụ hưởng phúc lợi xã hội về giáo dục cơ bản, phổ biến cũng như bình đẳng về cơ hội học tập và phát triển năng lực phù hợp với nguyện vọng và khả năng của từng cá nhân.
- Nhân văn, khoa học, hiện đại, dân tộc và đại chúng là những tính chất cơ bản của một nền giáo dục tiên tiến, không những phải được thấm nhuần trong chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục mà còn phải được quán triệt trong tổ chức và hoạt động giáo dục. Tức là, GDVN phải hướng tới mục tiêu vì con người, tạo mọi điều kiện cho con người tự do phát triển nhân cách phù hợp với sở thích và năng lực của từng cá nhân. Bước vào nền kinh tế tri thức, nhu cầu học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp ngày càng cao, tạo nên xu thế đại chúng hóa giáo dục, kể cả giáo dục đại học và nghề nghiệp. GDVN cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế để sớm vươn lên ngang tầm các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. GDVN một mặt phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống văn hiến hàng ngàn năm và tinh thần hiếu học của dân tộc, mặt khác tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Những tư tưởng sâu sắc về vấn đề học gì, học thế nào, học để làm gì được đúc kết trong lịch sử giáo dục của dân tộc Việt Nam cần trở thành những nguyên lý chủ đạo của GDVN hiện đại. Trả lời cho câu hỏi: “Học gì?”, ông cha ta đã có câu nói rất chí lý “dạy làm người trước khi dạy chữ”, đồng nghĩa với giáo lý của Đạo Khổng: “Tiên học lễ, hậu học văn” để giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục năng lực học thuật với giáo dục phẩm chất đạo đức.
Triết lý “học đi đôi với hành” đề cập đến cả ba vấn đề nêu trên. Đối với câu hỏi: “Học gì?”, triết lý này giải đáp mối quan hệ giữa lý thuyết và ứng dụng, thực hành, giữa kiến thức và kỹ năng. Triết lý này cũng góp phần giải đáp vấn đề “học thế nào”: để tiếp thu, làm chủ kiến thức thì phải thực hành, phải liên hệ với thực tiễn, phải vận dụng kiến thức trong thực tiễn, phải tự học, trau dồi, tìm hiểu kiến thức. Cuối cùng, đối với câu hỏi “Học để làm gì?” triết lý này khẳng định học để thực hiện những điều đã học trong cuộc sống.
Đối với câu hỏi “Học để làm gì?” ông cha ta cũng có câu trả lời xác đáng: “Học để giúp nước, giúp đời” nhằm phản bác lại tư tưởng tư lợi “vinh thân phì gia”: học để làm quan, để hưởng vinh hoa phú quý.
Những điều diễn giải trên đây có thể phát biểu bằng ngôn ngữ của giáo dục hiện đại như sau: Mục tiêu của giáo dục là đào tạo nhân lực, nhân tài phục vụ phát triển đất nước; chương trình, nội dung giáo dục phải toàn diện, chú trọng cả đào tạo kiến thức, kỹ năng và giáo dục phẩm chất đạo đức, cân đối giữa lý thuyết và thực hành; phương pháp giáo dục phải chú trọng thực hành, tự học.
- Các tư tưởng giáo dục truyền thống cần được phát triển, nâng cao và bổ sung thêm những nội dung mới để đáp ứng yêu cầu của nền GDVN trong thời kỳ đổi mới.
Tư duy độc lập, sáng tạo là phẩm chất rất quan trọng đối với nhân lực trình độ cao trong thế giới hiện đại. Năng lực tư duy độc lập, sáng tạo có thể rèn luyện thông qua hoạt động tự học và nghiên cứu khoa học.
Trong mấy năm gần đây ngành giáo dục tăng cường thực hiện chủ trương “giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội”, tập trung vào điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và chương trình, nội dung giáo dục cho phù hợp với yêu cầu sử dụng lao động, đồng thời khuyến khích, thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các cơ sở giáo dục với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đây là một chủ trương đúng đắn, việc xác định cơ cấu ngành nghề và chương trình, nội dung giáo dục phù hợp với yêu cầu của các cơ sở sử dụng nhân lực là rất cần thiết, góp phần quan trọng để cải thiện chất lượng giáo dục, nhưng thực chất chỉ là một giải pháp ở tầm nhà trường và chưa tiếp cận được bản chất của quan điểm “giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Từ cách tiếp cận trên, có thể bước đầu xác định tầm nhìn cho việc giải đáp những vấn đề cơ bản, cấp bách của GDVN hiện nay như sau:
1. Tháo gỡ nút thắt trong quan hệ giữa quy mô và chất lượng giáo dục
Nhu cầu về nguồn nhân lực của nền KT-XH đang phát triển nhanh và hội nhập sâu rộng của nước ta trong giai đoạn hiện nay đang vượt xa khả năng đáp ứng của hệ thống nhà trường cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề, trình độ và chất lượng giáo dục. Quy mô giáo dục mặc dù đã được nới rộng rất nhiều so với năng lực thực tế của các cơ sở giáo dục nhưng vẫn còn quá nhỏ để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội ở tất cả các bậc học, nhất là giáo dục mầm non, giáo dục trung học phổ thông và giáo dục nghề nghiệp (đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) và nhu cầu đang tăng cao đối với các dịch vụ giáo dục chất lượng cao.
Trong nhiều năm qua, ngành giáo dục đã quá chú trọng theo đuổi các mục tiêu về quy mô giáo dục (như chỉ tiêu số sinh viên trên vạn dân) mà chưa quan tâm thỏa đáng và thiếu các biện pháp quản lý chặt chẽ các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục. Mặt khác, nhu cầu học tập của xã hội cùng với tâm lý chuộng bằng cấp, khoa cử trong nhân dân đã tạo áp lực có chiều hướng ngày càng căng thẳng, quyết liệt. Trong bối cảnh đó, nhiều cơ sở giáo dục, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học, đã chạy theo lợi ích cục bộ, mở rộng quy mô tuyển sinh quá mức, bất chấp yêu cầu về chất lượng giáo dục. Theo Báo cáo kết quả giám sát số 329/BC- UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được trình tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XII (tháng 6 năm 2010) về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học” thì trong giai đoạn 1998-2009 hệ thống các trường đại học, cao đẳng phát triển quá nhanh, quy hoạch mạng lưới giáo dục đại học còn thiếu cụ thể, bất hợp lý và chậm được điều chỉnh. Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học mới được thành lập, nhất là các cơ sở giáo dục đại học địa phương và các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập không bảo đảm các điều kiện thành lập trường nhưng đã vội tuyển sinh với số lượng lớn. Quy mô đào tạo của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các cơ sở giáo dục ngoài công lập và các cơ sở giáo dục mới thành lập đã vượt quá xa so với điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục của chính mình, dẫn đến tình trạng là nguồn nhân lực do các cơ sở giáo dục đại học cung cấp không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao của nền KT-XH đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Hậu quả là sản phẩm đào tạo không được các cơ sở sử dụng nhân lực, nhất là những cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ hiện đại, có mức độ hội nhập quốc tế cao chấp nhận, mặc dù có nhu cầu thực sự. Nguyên nhân của hiện tượng nêu trên chính là do giáo dục đại học nước ta thời gian qua đã làm ngược với triết lý giáo dục: phát triển giáo dục để đào tạo nhân lực, nhân tài phục vụ đất nước.
Như vậy, quyết sách giải quyết mối quan hệ giữa quy mô và chất lượng giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là: Chất lượng giáo dục phải đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH. Đồng thời phát triển quy mô giáo dục phù hợp với khả năng bảo đảm chất lượng giáo dục.
2. Coi xã hội hóa đầu tư cho giáo dục như đầu tư cho phát triển
Phát triển KT-XH đất nước đòi hỏi đội ngũ nhân lực hùng hậu cả về quy mô lẫn chất lượng. Rất tiếc là hai yếu tố này thường vận động trái chiều nhau và trong hoàn cảnh nguồn lực đầu tư cho giáo dục còn rất hạn hẹp như ở nước ta hiện nay, hai yếu tố quan trọng nói trên của đội ngũ nhân lực đang xung đột gay gắt với nhau và chúng ta không thể đáp ứng đầy đủ đồng thời cả hai yêu cầu này trong phát triển giáo dục.
Quyết sách về mối quan hệ giữa quy mô và chất lượng giáo dục mà chúng ta lựa chọn ở trên chỉ là một giải pháp mang tính tình huống khi khả năng đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, hoàn toàn không phải là mục tiêu mà chúng ta mong muốn. Như vậy giải pháp triệt để cho vấn đề quy mô và chất lượng giáo dục không chỉ đóng khung trong mối quan hệ giữa hai yếu tố này mà cần mở rộng phạm vi xem xét, cụ thể là cần xác định trong khâu đầu tư cho giáo dục.
Với quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, trong 15 năm qua kể từ sau Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII), tỉ trọng ngân sách Nhà nước hàng năm dành cho giáo dục liên tục tăng mạnh và đã đạt mức 20% từ năm 2007 đến nay. Đây là một con số thống kê khá ấn tượng, thể hiện sự quan tâm và ưu tiên lớn của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh KT-XH của nước ta hiện nay khó có thể tăng thêm đáng kể trong vòng một vài năm tới. Bởi vậy, vấn đề cải thiện ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục cần tập trung chủ yếu vào việc phát huy hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn kinh phí được phân bổ.
Hiện nay, cơ chế kinh tế thị trường đang từng bước được định hình và sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với sự phân biệt rõ nét về thu nhập và mức sống giữa các bộ phận dân cư, dẫn đến nhu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao và đa dạng. Bởi vậy, ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục không thể phân phối theo kiểu bình quân, cào bằng như trước kia mà phải tập trung ưu tiên cho các cấp giáo dục phổ cập và giáo dục đại trà, cho đào tạo nhân tài và các ngành học theo nhu cầu của Nhà nước (sư phạm, văn hóa truyền thống, khoa học cơ bản...), cho giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa cũng như hỗ trợ các đối tượng chính sách, gia đình nghèo (thông qua học bổng, trợ cấp hoặc tín dụng sinh viên...). Mặt khác, cần phát triển các dịch vụ giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội (về môi trường, điều kiện học tập, về ngành nghề, về chất lượng giáo dục...) theo tinh thần tự nguyện. Đối với các chương trình giáo dục chất lượng cao, các dịch vụ bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người học thì người học phải tự trang trải kinh phí.
Việc đầu tư ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục công lập phải có trọng điểm, không bình quân, dàn trải, manh mún để tránh lãng phí và kém hiệu quả. Ngành giáo dục, trước hết là giáo dục nghề nghiệp, cần sớm thực hiện cơ chế hỗ trợ ngân sách Nhà nước trực tiếp cho đối tượng được thụ hưởng và nghiên cứu chuyển các nhiệm vụ giáo dục của Nhà nước thành các dịch vụ công để đặt hàng cho các cơ sở giáo dục, không phân biệt công hay tư thực hiện, tạo động lực cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục cũng như đảm bảo công bằng giữa các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Khối các cơ sở giáo dục công lập là lực lượng chủ lực thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước và các dịch vụ công trong giáo dục và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Xã hội hóa giáo dục là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và là giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài nhằm huy động sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn xã hội tham gia chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện xã hội hóa giáo dục một mặt có thể huy động thêm đáng kể nguồn lực đầu tư ngoài Nhà nước bổ sung cho các cơ sở giáo dục công lập. Nhưng mục tiêu trọng tâm của chính sách xã hội hóa giáo dục là tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập và phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực phục vụ phát triển KT-XH cũng như nhu cầu xã hội ngày càng lớn và đa dạng về học tập. Đến nay, khối các cơ sở giáo dục ngoài công lập đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trong hơn hai chục năm qua, có 78 cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập đã được thành lập và tham gia hoạt động giáo dục, chiếm 12,7% tổng quy mô giáo dục đại học của cả nước (tính đến tháng 12/2009).
Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục ngoài công lập, đặc biệt là ở các bậc giáo dục đại học cũng bộc lộ nhiều bất cập như: nguồn vốn đầu tư nhỏ, lẻ; đội ngũ giảng viên cơ hữu ít về số lượng và yếu về trình độ, kinh nghiệm chuyên môn; phải thuê mướn cơ sở vật chất và giảng viên từ các cơ sở giáo dục công lập và các cơ quan Nhà nước khác. Tình hình nêu trên không những vi phạm các điều kiện thành lập trường và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục của chính các cơ sở giáo dục ngoài công lập mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng giáo dục của các cơ sở giáo dục công lập có liên quan. Nhưng đáng lo ngại hơn cả là trên thực tế, các cơ sở giáo dục ngoài công lập chủ yếu chia sẻ khai thác, sử dụng các nguồn lực Nhà nước sẵn có cùng với các cơ sở giáo dục công lập mà chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài Nhà nước để bổ sung đầu tư cho giáo dục như mong muốn.
Để hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư chiến lược với vốn đầu tư lớn, nhưng vẫn tránh được khuynh hướng thương mại hóa giáo dục nhằm bảo vệ lợi ích xã hội nói chung và quyền lợi của người học nói riêng, Nhà nước cần chấp nhận một mức lợi nhuận hợp lý với những điều kiện nhất định trong hoạt động giáo dục và ưu tiên thành lập các cơ sở giáo dục ngoài công lập, đặc biệt là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư lớn và đáp ứng tốt các điều kiện thành lập trường. Khuyến khích các cơ sở giáo dục ngoài công lập, kể cả các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động phi lợi nhuận bằng các chính sách về thuế, sử dụng đất đai, tín dụng, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng giảng viên... với sự phân biệt mức độ ưu tiên giữa các cơ sở giáo dục ngoài công lập hoạt động phi lợi nhuận và các cơ sở giáo dục ngoài công lập có lợi nhuận hợp lý. Về thực chất, các cơ sở giáo dục ngoài công lập hoạt động phi lợi nhuận có hình thức sở hữu cộng đồng, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa trong thể chế kinh tế thị trường, bởi vậy cần được miễn thuế và hưởng các chính sách ưu tiên khác tương tự như đối với các cơ sở giáo dục công lập. Cùng với sự phát triển KT-XH đất nước và với chính sách khuyến khích, ưu tiên của Nhà nước, khối các cơ sở giáo dục ngoài công lập hoạt động phi lợi nhuận sẽ càng phát triển lớn mạnh và cùng với các cơ sở giáo dục công lập trở thành nòng cốt của hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Tạo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy tính năng động, sáng tạo của cơ sở giáo dục
Việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là yêu cầu tất yếu, khách quan và phù hợp xu thế phát triển của giáo dục hiện đại. Quyền tự chủ phát huy tính dân chủ, năng động, sáng tạo của cơ sở giáo dục. Nhưng quyền tự chủ chỉ có thể được thực hiện và phát huy tác dụng tích cực trong một khung khổ pháp lý phù hợp, tức là cần ban hành một cơ chế quản lý để bảo đảm thực thi quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục trên thực tế. Có thể nói, nếu chính sách xã hội hóa giáo dục góp phần quan trọng tăng đầu tư cho giáo dục từ các nguồn lực xã hội thì việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục xác lập một cơ chế quản lý năng động, tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động giáo dục vận hành với chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cần quy định phạm vi, nguyên tắc và điều kiện giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục. Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm có thể bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được quyền tự chủ trong phạm vi các hoạt động đào tạo, khoa học-công nghệ (KH-CN), hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng đào tạo (nhóm quyền tự chủ về hoạt động chuyên môn) và các công tác tổ chức-cán bộ, kế hoạch-tài chính... (nhóm quyền tự chủ về quản lý hành chính).
Hai là, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, theo nguyên tắc, được giao quyền tự chủ tương ứng với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như với khả năng tự đáp ứng kinh phí hoạt động và năng lực thực hiện quyền tự chủ được quy định thành các tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể và được đánh giá bằng kết quả kiểm định chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có hành vi vi phạm hoặc giảm sút khả năng tự đáp ứng kinh phí hoạt động và năng lực thực hiện quyền tự chủ thì bị thu hồi hoặc hạ mức tự chủ.
Ba là, về điều kiện giao quyền tự chủ, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải cam kết trách nhiệm khi thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật về hoạt động được giao quyền tự chủ của mình.
Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập được giao quyền tự chủ cao, Hội đồng trường là thiết chế cần thiết để đại diện cho chủ sở hữu là Nhà nước (thay cho cơ quan chủ quản) thực hiện vai trò quản lý đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Hoạt động của hội đồng trường tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực, giám sát hoạt động điều hành của người đứng đầu cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tránh tình trạng độc đoán, mất dân chủ. Theo quy định của Luật Giáo dục hiện hành, hội đồng trường là thiết chế bắt buộc trong cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nhưng đã sáu năm trôi qua kể từ khi Luật Giáo dục có hiệu lực, quy định này vẫn chưa được thực hiện ở phần lớn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, còn đối với số ít cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập đã thành lập hội đồng trường thì tổ chức này chỉ mang tính hình thức, không phát huy được vai trò quản lý của mình. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do các cơ sở giáo dục công lập chưa được giao quyền tự chủ đủ mức cần thiết để cần có hội đồng trường. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng trường chưa được quy định rõ ràng, mối quan hệ giữa hội đồng trường với thủ trưởng cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa đảm bảo được vị thế độc lập của hội đồng trường.
4. Chất lượng giáo dục phải đáp ứng yêu cầu phát triển KT- XH
Chất lượng giáo dục của một chương trình giáo dục hoặc của một cơ sở giáo dục đánh giá mức độ đáp ứng của chương trình giáo dục hoặc của cơ sở giáo dục đó đối với yêu cầu phát triển KT-XH. Để đo lường chất lượng giáo dục, hoạt động kiểm định chất lượng phân tích, đánh giá các yếu tố chủ yếu tác động đến chất lượng giáo dục, gọi là các điều kiện bảo đảm chất lượng, bao gồm:
- Chương trình giáo dục, sách giáo khoa, giáo trình
- Đội ngũ giảng viên, cán bộ
- Năng lực học tập của người học
- Cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính và môi trường giáo dục
Hiện nay, chất lượng giáo dục đại trà ở nước ta còn thấp, số chương trình và cơ sở giáo dục đạt chuẩn quốc gia chưa nhiều, một số chương trình giáo dục chất lượng cao ở các cơ sở giáo dục có uy tín được đánh giá tương đương chuẩn khu vực và một số chương trình giáo dục năng khiếu, tiên tiến hoặc liên kết quốc tế được đánh giá ngang tầm chuẩn quốc tế. Trong tương lai, theo yêu cầu KT-XH ngày một phát triển và hội nhập quốc tế, chất lượng giáo dục đại trà cần sớm đạt chuẩn quốc gia, còn chuẩn quốc gia từng bước vươn lên tiếp cận chuẩn khu vực và quốc tế. Khi đo,á đất nước ta sẽ có một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại ngang tầm quốc tế.
Quan điểm “giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội” có thể được vận dụng để xác định giải pháp đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Những năm qua, ngành giáo dục đã xác định được thách thức lớn nhất của giáo dục đại học nước ta là chất lượng đào tạo, nhưng lại tập trung tìm kiếm giải pháp tháo gỡ trong chính khâu đào tạo, cụ thể là tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo và công tác quản lý. Các giải pháp này trong giai đoạn đầu đã góp phần cải thiện chất lượng đào tạo, nhưng khi áp dụng triệt để sẽ khó khăn không hóa giải được: việc đầu tư đủ mức cho các điều kiện đảm bảo chất lượng vượt quá xa khả năng đáp ứng của ngân sách Nhà nước cũng như khả năng đóng góp của người học; việc trả lương và thu học phí mang nặng tính bình quân như hiện nay không khuyến khích người học và cơ sở đào tạo đầu tư cho mục tiêu chất lượng, hơn nữa, người học không thể chấp nhận đóng học phí cao trong khi mức thu nhập sau khi tốt nghiệp lại quá thấp, không đủ bù đắp cho chi phí học tập đã đầu tư. Phải chăng chúng ta phải xác định giải pháp đột phá cho thách thức này trong khâu sử dụng nhân lực, bởi vì nhu cầu xã hội chi phối quy trình và chất lượng đào tạo. Cùng với sự phát triển và hội nhập quốc tế mạnh mẽ của kinh tế xã hội đất nước, sự tranh đua nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh đang làm tăng nhanh nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao và các cơ sở sử dụng nhân lực sẵn sàng trả lương cao để thu hút nguồn nhân lực này. Đây là tiền đề thuận lợi để thực thi chính sách trả lương theo chất lượng nhân lực, kéo theo chính sách thu học phí theo chất lượng đào tạo. Các chính sách này tạo động lực khuyến khích người học đầu tư theo học các chương trình đào tạo chất lượng cao, từ đó tạo động lực thúc đẩy các cơ sở đào tạo đầu tư phát triền các chương trình đào tạo này. Phải chăng đây chính là giải pháp đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Từ nhiều năm nay, trên cơ sở kết hợp tiêu chí chất lượng cao và yếu tố phân bố theo vùng miền, lĩnh vực, ngành giáo dục đã xác định 14 cơ sở đại học trọng điểm bao gồm: 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, trường đại học Cần Thơ và 9 trường đại học đầu ngành về các lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp, sư phạm, y tế. Cần nhanh chóng hoàn chỉnh mô hình và quy hoạch phát triển để tập trung đầu tư cho các cơ sở đại học trọng điểm này đủ năng lực đảm đương được nhiệm vụ chủ lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho kinh tế xã hội cả nước cũng như các vùng miền và các lĩnh vực KT - XH then chốt.
Bên cạnh đó, một số trường đại học quốc tế do Nhà nước hợp tác với một số nước phát triển thành lập hoặc có vốn đầu tư nước ngoài cùng tham gia cung cấp nguồn nhân lực chất lượng quốc tế. Tuy nhiên việc tổ chức và hoạt động của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cũng cần đổi mới theo hướng:
- Cần sớm hoàn chỉnh cơ cấu chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực hợp lý, tương thích với cơ cấu tổ chức hai cấp (đại học và các trường đại học thành viên) của các đại học quốc gia và đại học vùng, hình thành cơ chế điều hòa, phối hợp nhằm đảm bảo tính liên thông, thống nhất trên cơ sở khai thác hiệu quả thế mạnh đa ngành, đa lĩnh vực, tính tự chủ cao và khả năng chia sẻ, dùng chung cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ.
- Để bảo đảm tính tự chủ cao của các đại học vùng và các trường đại học thành viên, cần nâng cấp hành chính các đại học này tương đương với tổng cục trực thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo, là đơn vị tài chính cấp một. Sớm có kế hoạch phát triển trường đại học Cần Thơ thành đại học vùng phù hợp với vị thế của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, có mô hình tổ chức hai cấp phù hợp với cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực đang hình thành trên thực tế.
- Quy hoạch và lộ trình phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng, trường đại học trọng điểm thành các cơ sở đại học chất lượng cao cần thiết kế theo phương châm từng bước lựa chọn một số ngành, lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế - xã hội mũi nhọn, đặc thù và tập trung đầu tư phát triển nhằm tiếp cận trình độ khu vực, quốc tế.
- Đối với các cơ sở đại học quốc tế công lập, cần nghiên cứu cơ chế tài chính để khắc phục bất cập về đầu tư ngân sách nhà nước hiện nay: các cơ sở đại học này (tương tự một số chương trình đào tạo tiên tiến) một mặt được Nhà nước đầu tư rất lớn, mặt khác vẫn thu học phí rất cao, do đó sinh viên theo học không phải là những học sinh xuất sắc, mà là con em các gia đình giàu có, không thuộc diện được ưu tiên hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
Tự học là phương pháp học tập giúp người học làm chủ kiến thức và phát triển tư duy độc lập, sáng tạo một cách hiệu quả. Những năm gần đây, giáo dục đại học nước ta đẩy mạnh đào tạo theo tín chỉ, nhưng chủ yếu tập trung vào cơ chế tích lũy tín chỉ mà không hoặc ít đề cập đến nội dung và phương pháp dạy học khối kiến thức của từng tín chỉ. Hình thức tổ chức đào tạo mới này nếu được áp dụng triệt để có thể tạo cơ hội thuận lợi cho sinh viên thiết kế kế hoạch học tập riêng phù hợp với năng lực và điều kiện của từng cá nhân nhưng đòi hỏi tăng cường nhiều về cơ sở vật chất và lực lượng giảng viên. Trong khi đó, sinh viên hệ chính quy chủ yếu học tập trung và toàn bộ thời gian, ít nhu cầu có kế hoạch học tập riêng. Một yếu tố quan trọng của đào tạo theo tín chỉ là giảm thời lượng lên lớp và tăng thời lượng tự học, dẫn đến đổi mới chương trình, nội dung đào tạo và phương pháp dạy học. Trong 5 năm qua, Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai đào tạo theo tín chỉ nhưng xuất phát từ việc đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo hướng tăng cường tự học. Như vậy là phù hợp với yêu cầu và điều kiện của giáo dục đại học nước ta.
5. Nghiên cứu KH- CN phục vụ đào tạo và phát triển KT- XH
Hoạt động KH-CN trong các cơ sở giáo dục đại học nhằm các mục tiêu sau:
Một là, nâng cao chất lượng đào tạo. Việc tham gia nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN giúp nâng cao trình độ khoa học của đội ngũ giảng viên; đổi mới bổ sung, cập nhật kiến thức nhằm nâng cao chất lượng giáo trình, bài giảng. Việc tập luyện nghiên cứu khoa học dưới hình thức thực hiện khóa luận, luận văn, luận án và tham gia nghiên cứu khoa học trong khuôn khổ các đề tài, dự án KH-CN dưới sự hướng dẫn của giảng viên có trình độ khoa học cao làm hình thành và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học, tư duy độc lập sáng tạo ở người học. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học của người học, nhà trường phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Hai là, phát triển KT-XH. Hoạt động KH-CN theo mục tiêu này góp phần phát triển tri thức, sáng tạo công nghệ, giải pháp mới, cung ứng các sản phẩm và dịch vụ KH-CN có giá trị phục vụ phát triển KT-XH.
Nghiên cứu KH-CN cùng với đào tạo là hai nhiệm vụ cơ bản của cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là ở bậc đào tạo sau đại học. Hai nhiệm vụ này gắn kết chặt chẽ với nhau. Hoạt động đào tạo cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển KH-CN và đội ngũ giảng viên trực tiếp tham gia hoạt động KH-CN. Ngược lại, mục tiêu đầu tiên của hoạt động KH-CN trong cơ sở giáo dục đại học chính là nâng cao chất lượng đào tạo. Theo kết quả giám sát của Quốc hội, hoạt động KH-CN, nhất là hoạt động KH-CN với mục tiêu phát triển KT-XH ở các cơ sở giáo dục đại học hiện nay còn rất yếu. Tỉ trọng hoạt động KH-CN của phần lớn các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học dân lập còn rất thấp. Tuy nhiên, không thể đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN ở mức như nhau. Hoạt động KH-CN nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cần được coi là nhiệm vụ bắt buộc đối với tất cả các cơ sở giáo dục đại học, kể cả các cơ sở giáo dục đại học dân lập. Kinh phí phục vụ cho hoạt động KH-CN loại này được lấy từ nguồn kinh phí KH-CN thường xuyên hoặc trích từ kinh phí đào tạo của cơ sở giáo dục đại học. Trong khi đó, đối với hoạt động KH-CN nhằm phát triển KT-XH thì các cơ sở giáo dục đại học cần cân nhắc khả năng về cơ sở vật chất và năng lực đội ngũ cán bộ khoa học của mình để tham gia ở mức độ phù hợp. Kinh phí đầu tư cho hoạt động KH-CN loại này được lấy từ các đề tài, dự án KH-CN do nhà nước đặt hàng, các dự án hợp tác quốc tế, các hợp đồng kinh tế và nguồn thu từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ KH-CN.
Trên thế giới, trường đại học có tỉ trọng đào tạo sau đại học và tỉ trọng hoạt động KH-CN rất cao (vượt mức 50%) được gọi là trường đại học nghiên cứu. Các trường đại học nghiên cứu rất chú trọng hoạt động KH-CN nhằm phát triển KT-XH. Giáo dục đại học Việt Nam cần tập trung đầu tư phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng và các trường đại học trọng điểm trong từng lĩnh vực thành các đại học nghiên cứu hoặc đại học định hướng nghiên cứu (với tỷ trọng đào tạo sau đại học và tỷ trọng hoạt động KH-CN cũng cao nhưng không bằng các đại học nghiên cứu)./.
GS, TSKH. ĐÀO TRỌNG THI
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội