VẤN ĐỀ QUYỀN LỰC VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
Thực
tiễn cách mạng nước ta yêu cầu: “Những người có thể phụ trách giải
quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và
không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo”(1). Công
cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, hơn bao giờ hết đang “Đòi hỏi cao đối
với cán bộ lãnh đạo, nhất là các đồng chí giữ cương vị trọng trách trong
bộ máy của Đảng, Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các đồng chí Ủy
viên Trung ương, bí thư tỉnh, thành ủy, bộ trưởng, người đứng đầu các
ngành, địa phương, đơn vị và các cán bộ lãnh đạo khác phải tự giác rèn
luyện, nêu gương cho cấp dưới về sự giác ngộ chính trị, giữ gìn phẩm
chất, đạo đức, lối sống, sự hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của Đảng, vì
hạnh phúc của nhân dân”(2); “quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị”(3).
Theo
nghĩa rộng thông thường, quyền lực là năng lực, khả năng của một cá
nhân hay tổ chức tác động đến những cá nhân, tổ chức khác, buộc họ phải
thực hiện ý chí của mình thông qua các hình thức thể hiện trên phương
diện chính trị, lập pháp, hành chính, tư pháp, kinh tế, thông tin,...;
trong đó, quyền lực chính trị là quan trọng nhất, bao trùm, chi phối mọi
hoạt động của đời sống xã hội, trên nền tảng pháp lý và đạo lý. Trong
giai đoạn hiện nay, cá nhân và tổ chức phải được trao hoặc ủy quyền đủ
để thực thi quyền lực theo pháp luật đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công
cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Khi
một cá nhân hay một tổ chức, dù lớn hay nhỏ, sẵn lòng ủy quyền, trao
quyền cho người thể hiện được tài năng, đạo đức, sức lôi cuốn các cá
nhân, để dẫn dắt cộng đồng thì việc giám sát sự thi hành thẩm quyền tự
nó đã trở thành trách nhiệm đối với người trao quyền hoặc ủy quyền của
cộng đồng, của quốc gia, theo pháp luật. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, nếu
thẩm quyền không gắn với trách nhiệm thì thẩm quyền hoặc bị buông lỏng,
trở nên vô tác dụng hoặc bị tha hóa, thoái hóa trở nên không giới hạn.
Và khi đó, sự mất cân bằng quyền lực sẽ xảy ra, tạo nên tình trạng quyền
lực vô tác dụng, hoặc bị biến thành vật sở hữu của cá nhân, của phe
nhóm, gây rối loạn xã hội.
Điều
cần cảnh báo là, khi quyền lực đạt tới trình độ tuyệt đối, mặt đối lập
của tình trạng này nhất định sẽ dẫn tới tha hóa tuyệt đối, nếu thẩm
quyền không được khắc chế và kiểm soát bằng đạo đức, bằng pháp luật và
các công cụ kiểm soát khác, thông qua đề cao trách nhiệm cá nhân. Nói
một cách hình ảnh, nếu biết ra lệnh thì chỉ là quan chức, còn
biết truyền cảm hứng và chủ động chịu trách nhiệm thì đó là người lãnh
đạo, quản lý đúng nghĩa. Một trong những thử thách của sự lãnh đạo, quản
lý chiến lược là khả năng giải quyết vấn đề một cách khoa học và dân
chủ, đó cũng là mấu chốt đối với công việc kiểm soát quyền lực.
V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng: “Lý do tồn tại của tổ chức đảng, và của các lãnh
tụ xứng đáng với danh hiệu đó là, ngoài nhiều điểm khác, đảng và lãnh
tụ còn phải thông qua một công tác lâu dài, kiên cường, thiên hình vạn
trạng và nhiều mặt của tất cả những đại biểu giác ngộ của giai cấp mình
mà thu hoạch được những kiến thức cần thiết, kinh nghiệm cần thiết, -
ngoài kiến thức và kinh nghiệm - là tính nhạy bén chính trị cần thiết để
giải quyết một cách chính xác và mau lẹ những vấn đề chính trị phức
tạp”(4). Điều đó cho thấy rằng, sự nhạy bén chính trị cũng
như việc kiểm soát quyền lực là những khâu quan trọng trong công cuộc
lãnh đạo, cầm quyền của đảng cộng sản. Quyền lực được nhân dân ủy thác
và giao phó cho Nhà nước; đến lượt mình, Nhà nước quản lý mang tầm chiến
lược, chủ động đón nhận sự ủy thác quyền lực từ nhân dân và hoàn thành
việc thực thi quyền lực của nhân dân một cách xứng đáng, theo phương
châm minh bạch, dân chủ và đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định một
cách thống nhất. Điều đó sẽ bảo đảm vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng,
nhằm kiến tạo và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu
quả.
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 14 của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương. (Ảnh: TTXVN)
CẢNH BÁO SỰ BUÔNG LỎNG HOẶC THA HÓA, THOÁI HÓA QUYỀN LỰC
Thực
tiễn đã và đang chỉ rõ, mọi sự tha hóa, thoái hóa quyền lực đều là tham
nhũng dưới mọi thủ đoạn, hình thức và mức độ, từ tham nhũng kinh tế tới
tham nhũng chính sách. Những người tha hóa quyền lực cấu kết với nhau
rất tinh vi, chặt chẽ trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; họ lợi
dụng các “khoảng trống” pháp luật, việc thiếu công khai, minh bạch,
thiếu cơ chế và chế tài kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để trục
lợi; bất chấp các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chà đạp lên
luân thường đạo lý, cốt chiếm đoạt mọi thứ vì cá nhân và phe nhóm.
Những hành động đó phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, gây xáo
trộn, làm rối loạn kỷ cương và xã hội.
Sự
tha hóa, thoái hóa quyền lực, “ăn cắp” và “buôn bán” quyền lực dưới mọi
hình thức, cấp độ làm xuất hiện những “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”,
có nguy cơ nảy nở những “sứ quân”, biến những người được trao quyền
thành những “ông tướng, bà tướng” tự tung tự tác, trong “những bầu trời
riêng”; đồng thời, gây chia rẽ nội bộ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân,
làm suy yếu nền chính trị của đất nước. Sự tha hóa quyền lực biểu hiện
từ việc dùng thẩm quyền của mình để tác động không đúng, không phù hợp
cho đến sự “ưu ái” đối với các lĩnh vực, nhằm trục lợi cho mình và “nhóm
lợi ích”, cũng như trong việc quyết định các chủ trương, chính sách,
các lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, như cấp phép, cấp vốn, quy hoạch, bổ
nhiệm cán bộ... Đặc biệt, sự tha hóa, thoái hóa quyền lực vừa công khai,
vừa tinh vi, câu kết chặt chẽ ngang - dọc, trên - dưới, trong -
ngoài... bằng những “luật ngầm” đã xuất hiện trên các phương diện kinh
tế, chính trị, xã hội ở một số nơi, đã và đang gây nên những hậu họa
khôn lường.
Đáng
lo ngại là sự tha hóa, thoái hóa quyền lực của không ít người rất đa
dạng, tinh vi; họ núp sau tấm bình phong tập thể, cộng đồng. Tuy nhiên,
việc phát hiện và xử lý các vụ việc có liên quan đến tha hóa, thoái hóa
quyền lực thường rất khó khăn, phức tạp; vì nó thường gắn với người có
chức vụ, quyền lực lớn, nên có mối quan hệ chằng chịt, đa dạng và không
ít trường hợp còn được bao che, thậm chí dùng cả tổ chức quyền lực phản
kích quyết liệt, chống lại các lực lượng kiểm tra, thanh tra, giám sát,
các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, làm cho tình hình ở không ít
nơi diễn ra rất phức tạp.
Ngay
từ tháng 6/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Dìm người giỏi, để giữ
địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm). Gặp việc phải,
mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lạo. Gặp giặc mà
rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử. Đều làm trái với chữ LIÊM.
Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp
hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp”, “Trước nhất là cán bộ các cơ
quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của
đút, có dịp “dĩ công vi tư””(5).
Thực
tiễn cách mạng chỉ rõ, giải quyết có hiệu quả, không để xảy ra tình
trạng thừa quyền lực nhưng thiếu năng lực, trước hết là năng lực chính
trị và pháp luật, trong điều kiện Đảng lãnh đạo, cầm quyền bằng pháp
luật là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Ranh
giới giữa thẩm quyền được giao với sự năng động, sáng tạo vốn rất mong
manh nhưng rất đa dạng, phong phú... và trong một số hoàn cảnh lại là
điều kiện thuận lợi cho những kẻ rắp tâm lợi dụng quyền lực để mưu lợi
cho cá nhân. Điều đó dẫn tới sự rối loạn hệ giá trị trong đánh giá, thẩm
định, vượt ngoài khuôn khổ cho phép và làm rối loạn kỷ cương, kỷ luật ở
không ít nơi. Những trường hợp đó âm mưu sở hữu quyền lực một cách “vô
pháp vô thiên”, rắp mưu hoành hành quyền lợi cá nhân, phe nhóm, phường
hội. Nếu không nghiêm túc giải quyết tình trạng trên, dễ dẫn tới nạn rũ
bỏ, trốn tránh trách nhiệm theo thẩm quyền, chia cắt kỷ luật và khoanh
vùng kỷ luật và pháp luật, nguy cơ biến kỷ luật và pháp luật thành những
“thanh kiếm phường chèo”(!). Qua các vụ đại án về tha hóa, thoái hóa
quyền lực của nhiều cá nhân và tổ chức vi phạm pháp luật do lợi dụng
quyền lực đã được xét xử gần đây cho thấy rõ tính nguy hại của vấn nạn
trên; đồng thời, cảnh báo nghiêm khắc sự thiếu tôn trọng pháp luật hoặc
cố tình giẫm đạp lên luật pháp đều dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm đó.
Nhưng
điều đáng sợ hơn là, khi bị chi phối bởi “lợi ích nhóm”, tệ “cát cứ
phường hội”, băm nhỏ lợi ích quốc gia... tất sẽ dẫn đến tình trạng thật
giả lẫn lộn, phải trái bất minh, “chụp mũ” những người năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung hoặc tấn
công những người có dũng khí đấu tranh chống lại nạn lạm quyền, lộng
quyền, hoặc cố ý làm trái; đồng thời, làm thui chột, thậm chí phá vỡ
động lực phát triển, làm rạn vỡ đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược; xuất hiện nguy cơ làm băng hoại không ít tổ chức,
cơ quan, đơn vị.
ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC - NỘI DUNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Để
kiểm soát quyền lực, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng cơ chế; theo đó,
hoàn thiện hệ giải pháp đồng bộ, phù hợp và khả thi, với các thể chế và
định chế, theo phương châm “dễ hiểu, dễ làm và dễ kiểm tra”.
Tại
Hội nghị tiếp xúc cử tri, ngày 16/10/2016, lần đầu tiên Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế,
pháp luật”(6). Nói một cách hình tượng, “lồng cơ chế” đó
chính là sự tổng hòa hệ thống kỷ luật của Đảng và hệ thống pháp luật của
Nhà nước. Đó là Quốc pháp và Đảng cương. Nhưng, trung tâm của Quốc pháp
và Đảng cương là sự tín nhiệm của nhân dân - chủ thể quyền lực nhà
nước, mà thước đo là lòng dân đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chiến lược. Ba nhân tố rường cột này hợp thành cơ chế kiểm soát quyền
lực.
Có
thể khẳng định ở đây, quá trình đổi mới và xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực thực chất là quá trình vạch ra những “độ” tồn tại của quyền
lực, với những giới hạn cho phép về mặt lịch sử, mà người được
ủy quyền hoặc được trao quyền lực không được phép vượt qua theo thẩm
quyền và trách nhiệm, trong bất cứ hoàn cảnh, cả điều kiện trên nền tảng
pháp lý và đạo lý, để bảo đảm quyền lực được kiểm soát, cân bằng. Vì
vậy, cần lưu ý rằng, việc đổi mới, sáng tạo cơ chế kiểm soát quyền lực
chính là việc xác định hệ thống chỉnh thể bao gồm toàn thể các yếu tố
(chính trị, pháp luật, đạo đức...) có liên quan tác động lẫn nhau một
cách tự nhiên và tất yếu để nhằm đạt mục đích, còn cơ chế chính là cấu
trúc vận hành, nhằm truyền nối động cơ giúp vận hành toàn bộ hệ thống,
từ bên trong tới bên ngoài, từ chủ thể tới khách thể; nếu một yếu tố nào
đó không có giá trị trong chỉnh thể và không bảo đảm tính thống nhất
thì hệ thống đó không tồn tại, dẫn đến cơ chế sẽ bị phá vỡ.
Do
đó, để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, cùng với các nhân tố cấu
thành cơ chế (điều kiện cần và đủ, phương thức thực thi, các công cụ và
điều kiện hỗ trợ...), phải có đủ ba nhân tố căn bản, có tính rường cột
hợp thành và chi phối cơ chế kiểm soát quyền lực, đó là: Quốc pháp -
Đảng cương - Sự tín nhiệm của nhân dân. Nếu thiếu đi một trong ba nhân
tố căn bản này, nhất định sẽ không có bất cứ một cơ chế kiểm soát quyền
lực nào tương thích và hữu hiệu đáp ứng với tình hình hiện nay.
Các giải pháp căn bản và chủ yếu thực thi kiểm soát quyền lực
Một là,
định lượng hóa và cụ thể hóa trách nhiệm theo thẩm quyền trên từng
phương diện, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng... và
từng vị trí, chức vụ bảo đảm đúng quyền, rõ quyền, đủ quyền và thực
quyền; theo đó, định lượng hóa để cụ thể hóa những biểu hiện tha hóa,
thoái hóa quyền lực với phương châm “xây kết hợp với chống”, “phòng bệnh
hơn chữa bệnh”, không thể dung nạp những “quyền lực ngoài quyền lực”,
“quyền lực ngầm”, “quyền lực đen”... Những cá nhân, tổ chức được giao
quyền, ủy quyền, phải tự kiểm soát mình bởi pháp luật và kỷ luật. Đây là
việc rất khó, vì điều khó khăn nhất đối với mỗi con người chính là
chiến thắng được chính bản thân mình.
Đồng
thời, tiếp tục đổi mới và định rõ mối quan hệ giữa người đứng đầu với
tập thể lãnh đạo, quản lý; giữa thẩm quyền các bên; giữa cấp trên với
cấp dưới; giữa bên trong tập thể lãnh đạo, quản lý với bên ngoài, trong
hệ thống và ngoài hệ thống; giữa cơ quan kiểm soát quyền lực với người
và tổ chức được trao hoặc ủy thác quyền lực trong một chỉnh thể hữu cơ,
không cắt khúc, không khép kín, không ngoại lệ, trên cơ sở trách nhiệm
giải trình công khai và dân chủ. Việc buông lỏng quyền lực hay quyền lực
bị tha hóa, thoái hóa - cả hai đều nguy hiểm như nhau; theo đó, muốn
hạn chế, đẩy lùi tình trạng trên, đội ngũ cán bộ cần được đào tạo một
cách đầy đủ về pháp luật, khoa học tổ chức, khoa học hành chính ngang
tầm trọng trách.
Hai là, đổi
mới cơ chế kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc quyền hạn song hành và
gắn với trách nhiệm, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát và kiểm soát
nghiêm ngặt các cơ quan kiểm soát quyền lực. Đổi mới và hoàn thiện, bảo
đảm thống nhất các quy định của Đảng với hệ thống pháp luật của Nhà nước
một cách toàn diện, đồng bộ và cụ thể. Cần nhấn mạnh, tiếp tục hiến
định và luật định hóa quyền lực của nhân dân - với tư cách là chủ thể
quyền lực quốc gia - trong việc kiểm soát quyền lực được nhân dân ủy
quyền, giao phó cho người đứng đầu trong bộ máy của Đảng, bộ máy của Nhà
nước và bộ máy của cả hệ thống chính trị.
Trên
cơ sở định lượng hóa và cụ thể hóa về thẩm quyền, tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện cơ chế về cá thể hóa trách nhiệm trong việc chất vấn, giải
trình, phản biện một cách dân chủ, công khai, minh bạch đối với người
được giao và giữ quyền lực (người, tổ chức và công việc); đồng thời, có
định chế minh bạch về nguyên tắc, trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể
lãnh đạo, quản lý, quản trị (gồm các cá nhân thành viên ban lãnh đạo với
vị trí công vụ của mỗi người), theo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm
dựa trên nền tảng nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thống nhất,
thông suốt. Gắn công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra của
Nhà nước, giám sát của nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực một cách
đồng bộ, thống nhất, liên thông và chặt chẽ. Thực hiện đồng thời cấp
trên kiểm tra, giám sát cấp dưới; kiểm tra, giám sát nội bộ, giám sát từ
dưới lên; giám sát chéo giữa các cơ quan, tổ chức, giám sát của nhân
dân. Công khai hóa, minh bạch hóa là con đường ngắn nhất, là phương pháp
tốt nhất để giám sát, kiểm soát quyền lực của cá nhân hay tập thể. Định
vị cơ chế thưởng - phạt một cách dân chủ, minh bạch, chính xác, kịp
thời, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có giới hạn cuối cùng
trong kiểm soát quyền lực.
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng Ban thường trực Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực làm việc với
Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: TTXVN)
Ba là,
đổi mới và xây dựng bộ máy thực thi công việc kiểm soát quyền lực (kiểm
tra, thanh tra, điều tra, kiểm sát...) trong tổng thể tiến trình đổi
mới, sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị các cấp theo hướng
liên thông, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn đội ngũ cán bộ giữ
chức năng, nhiệm vụ kiểm soát việc thực thi quyền lực là nhiệm vụ có ý
nghĩa rất quan trọng, là nhân tố quyết định thành bại của việc kiểm soát
quyền lực. Do đó, những người được trao trọng trách kiểm soát quyền lực
trong các cơ quan có thẩm quyền phải là những người trung thành, tinh
nhuệ, liêm chính, mẫn cán, dũng cảm, hành động công vụ theo kỷ luật và
pháp luật một cách nhân văn. Đặc biệt, trước yêu cầu cấp bách hiện nay,
càng cần phải thực thi kiểm soát quyền lực một cách nghiêm ngặt ở các cơ
quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực.
Bốn là,
xây dựng và phát triển môi trường chính trị - xã hội bảo đảm kiểm soát
quyền lực một cách bao trùm, rộng khắp và chặt chẽ. Trọng tâm của công
việc đổi mới thể chế là bảo vệ vô điều kiện sự tham gia và phát huy mạnh
mẽ vai trò của nhân dân - với tư cách là chủ thể quyền lực, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông
tin đại chúng và truyền thông xã hội trong giám sát, phát hiện, tố cáo
sự tha hóa, thoái hóa quyền lực của cá nhân và tổ chức được ủy thác hoặc
được trao quyền lực.
Mỗi
cơ quan, đơn vị, tổ chức là một môi trường kiểm soát quyền lực trực
tiếp, dân chủ, công khai, cụ thể thông qua các định chế phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của mình theo quy định, kỷ luật đảng, Hiến pháp và pháp
luật. Đây là công việc bảo đảm kiểm soát từ ngoài vào, từ dưới lên... cả
về phương diện pháp lý lẫn bình diện đạo lý xã hội và dư luận xã hội
(hiện đang bị ngăn trở bởi không ít “cục nghẽn mạch” về thể chế cần được
dỡ bỏ). Đây là công việc quan trọng, vẫn đang còn không ít “khoảng
trống” cần phải nhanh chóng được lấp đầy để thực thi và bảo vệ quyền lực
của nhân dân có hiệu quả. Bởi lẽ, chỉ cần nhìn trong 10 năm qua, có tới
75% số vụ việc liên quan tới vi phạm pháp luật do lợi dụng quyền lực
dưới mọi hình thức và mức độ là do nhân dân và công luận phát hiện. Hơn
lúc nào hết, hiện nay, chính trị phải là sự thanh khiết từ to đến nhỏ,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói; và lòng tin của nhân dân, sức mạnh
của công luận có vai trò vô cùng quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị quan trọng này.
Năm là, đổi
mới và thống nhất các công cụ khác trong việc giám sát, kiểm soát quyền
lực. Tiếp tục đổi mới tư duy, thực hiện hiến định và luật định về quyền
thông tin và được thông tin (về cá nhân, tổ chức và thẩm quyền của họ
theo luật định); về quyền và trách nhiệm giám sát, về phương thức kiểm
tra, giám sát, kiểm soát; về quyền được trưng cầu ý kiến, lựa chọn và
bãi miễn của nhân dân đối với cá nhân và tổ chức. Tất cả nhằm khắc phục
sự chồng lấn, không minh bạch giữa trách nhiệm cá nhân với trách nhiệm
tập thể, ngăn chặn nạn nhân danh tập thể để mưu đồ lợi ích cá nhân hoặc
“ẩn nấp” trong danh nghĩa tập thể để che giấu, trốn tránh, rũ bỏ trách
nhiệm cá nhân, làm cho quyền lực nằm ngoài vòng giám sát, kiểm soát;
nhân danh “tổ chức kiểm soát quyền lực” mà dung túng, bao che cho hành
vi lợi dụng quyền lực, thậm chí cả những “quyền lực đen”, “quyền lực
ngầm”, “quyền lực trong bóng tối”... Theo đó, cần xác định rõ quyền lực
tối thượng của nhân dân trên phương diện này và quyền lực ấy phải tiếp
tục được luật hóa một cách cấp thiết.
Sáu là, tiến hành việc gắn
kiểm soát quyền lực cá nhân và tổ chức ở trong nước với kiểm soát họ ở
ngoài nước (khi công tác và hoạt động ở ngoài nước), chủ động tăng cường
hợp tác, trao đổi, tham chiếu kinh nghiệm với nước ngoài trong việc
kiểm soát quyền lực. Cần tiếp thu, tiếp biến kinh nghiệm cầm quyền của
các đảng cầm quyền và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, một cách
cầu thị, không kỳ thị, không xa lánh; đồng thời, hợp tác chặt chẽ với
các quốc gia trên thế giới, là công việc cần thiết và rất quan trọng.
Thực
tiễn vừa qua đã vạch rõ những mưu đồ gây rối việc kiểm soát quyền lực
đối với những cá nhân và tổ chức liên quan với nước ngoài; đồng thời,
tạo nên những “vùng trắng”, “vùng trống”, biến đây thành những “lỗ hổng
thoát tội”, “vùng tránh”, “vùng né”, “vùng trốn”, nơi tẩu tán “nhân sự”,
tẩu tán tài sản trong thực thi kiểm soát quyền lực đối với sự tha hóa
và thoái hóa quyền lực. Và trước mắt, với bao nhiêu công việc và từ kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy, khi Việt Nam đang trên con đường đổi mới và
phát triển, thì càng cần phải tăng cường kiểm soát quyền lực và thực thi
cơ chế kiểm soát quyền lực một cách thực chất, hiệu quả./.
Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
___________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.315.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, tr.153-154.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb..Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2012, tr.33.
(4) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.41, tr.66.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
(6) Vũ Duy: Tổng Bí thư: “Nhốt” quyền lực vào trong lồng cơ chế, pháp luật, Báo VOV điện tử, ngày 17/10/2016.
(Nguồn: TC Cộng sản)