(TG)- Những nội dung, phương thức tham mưu của các Ban Tuyên giáo cho
các cấp ủy Đảng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác phân luồng học sinh đáp ứng yêu
cầu phát triển nguồn lực địa phương và đất nước trong giai đoạn tới.
Ngày 29-5, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo
Trung ương phối hợp với Tổ chức hợp tác Đức (GIZ) tổ chức hội thảo khoa
học “Nâng cao chất lượng tham mưu của Ban Tuyên giáo các tỉnh/thành ủy
về công tác phân luồng học sinh sau trung học”. Đồng chí Lâm Phương
Thanh, Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã tới dự và phát biểu chỉ
đạo tại Hội nghị.
Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lâm
Phương Thanh khẳng định: Công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ
sở đi học nghề là một chủ trương lớn đã được nêu trong các văn kiện của
Đảng trong gần hai chục năm qua. Chủ trương lớn này đã được nhấn mạnh trong Chỉ
thị số 10-CT/TW, ngày 5-12-2011 của Bộ Chính trị về “Phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở, tăng cường phân luồn học sinh sau trung học cơ sở và
xóa mù chữ cho người lớn”. Nhiệm vụ và giải pháp thứ tư trong Chỉ thị này đã nêu rõ: “Triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện tốt việc
phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở theo hướng tăng
nhanh tỷ lệ học sinh vào học ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, trung
cấp nghề. Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị dạy
và học nghề; hỗ trợ các trung tâm giáo dục thường xuyên dạy bổ túc văn
hóa trung học phổ thông gắn với dạy nghề; có cơ chế khuyến khích các cơ
sở tuyển dụng học sinh sau trung học cơ sở qua đào tạo nghề; tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh được học liên thông lên các cấp học cao hơn”.
Tuy nhiên, công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở vẫn chưa có
sự chuyển biến rõ nét.
Ngày 4-11-2014, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI), kỳ họp thứ Tám đã ra Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế”. Một lần nữa, Trung ương nhấn mạnh chủ trương
phân luồng học sinh sau trung học và được đưa vào mục tiêu của Nghị
quyết: “Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có
tri thức phổ thông, có nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau
trung học cơ sở, trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn
bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng
phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo
dục trung học phổ thông và tương đương”.
Đồng chí Lâm Phương Thanh nhấn mạnh mục
tiêu của Hội thảo lần này nhằm xác định tầm quan trọng của công tác phân
luồng đối với việc tái cấu trúc nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ đó, khuyến nghị các cơ
quan chức năng rà soát các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với các yếu tố ảnh hưởng đến công tác phân luồng học sinh sau trung
hoc, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống giải pháp tháo gỡ những khó khăn của
công tác phân luồng học sinh sau trung học, đề xuất những định hướng
đổi mới nội dung, phương thức tham mưu của các Ban Tuyên giáo cho các
cấp ủy Đảng, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng đối với công tác phân luồng học sinh đáp ứng yêu cầu
phát triển nguồn lực địa phương và đất nước trong giai đoạn tới.
|
Toàn cảnh hội thảo (Ảnh: TH)
|
Tại Hội thảo, các đại biểu cũng đã tập
trung thảo luận, đưa ra các ý kiến về thực trạng công tác phân luồng
học sinh sau trung học – nguyên nhân không thực hiện được chủ trương
phân luồng; Những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh công tác phân
luồng; những bất cập về chính sách đối với công tác đào tạo nguồn nhân
lực có tác động đến công tác phân luồng học sinh sau trung học; tác
động của việc xây dựng xã hội học tập đối với phân luồng học sinh sau
trung học; tầm quan trọng và vai trò của các ban Tuyên giáo đối với công
tác phân luồng.
Theo đồng chí Nguyễn Đắc Hưng (Vụ
trưởng, Vụ Giáo dục & Đào tạo, dạy nghề - Ban Tuyên giáo Trung ương)
cho biết, nhìn lại 18 năm (kể từ năm 1996 khi có Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII về phát triển giáo dục và đào tạo), đến nay, công tác phân
luồng học sinh sau trung học nhất là đối với học sinh tốt nghiệp THCS
tồn tại nhiều yếu kém. Công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh chọn
nghề chưa thực hiện tốt, dẫn đến tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS không đi
học nghề, đa số thi vào THPT năm sau cao hơn năm trước. Đến năm
2011-2012, tỷ lệ này là 80,36% . Trong 5 năm gần đây, tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp THPT vào đại học, cao đẳng luôn chiếm xấp xỉ 50% tổng số thí
sinh đăng ký dự thi, trong khi số học sinh tốt nghiệp THPT đi học nghề
và trung cấp chuyên nghiệp chỉ chiếm trên dưới 27%; số học sinh đi vào
thị trường lao động chiếm trên dưới 23%. Đáng chú ý là tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp THCS, THPT không tiếp tục học nghề ngày càng đông với số
lượng hiện nay khoảng gần 300.000 người, gây ra sự lãng phí trong đào
tạo và sự thiếu hụt lao động qua đào tạo ngày càng tăng.
Nguyên nhân của sự bất hợp lý về cơ cấu
tuyển sinh như trên chính là vì không thực hiện được công tác phân
luồng, đã làm cho cơ cấu nhân lực của nước ta ngày càng trở nên bất hợp
lý và không đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển của nền kinh tế -
xã hội đất nước.
Không những thế, xu hướng bất hợp lý về
nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng, nhất là tỷ lệ giữa Đại học
(ĐH)/Trung cấp (TC) và công nhân kỹ thuật (CNKT). Năm 1979, tỷ lệ này
là 1 kỹ sư/2,25 TCCN/7,1 CNKT; năm 2012, cơ cấu nguồn nhân lực ở Việt
Nam là 1 kỹ sư/ 0,43 TCCN/ 0,56 CNKT; trong khi đó ở những nước trên thế
giới trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa thì tỷ lệ này là 1/4/10.
Theo con số thống kê năm 2013 được công
bố, có tới 72.000 người có trình độ đại học và thạc sỹ thất nghiệp, nếu
tính cả số tốt nghiệp đại học làm việc không đúng ngành nghề được đào
tạo thì con số này rất cao. Ở một số địa phương, trong vài năm gần đây,
chỉ có khoảng 20% cử nhân mới ra trường được làm việc đúng nghề, còn lại
khoảng 80% cử nhân thất nghiệp hoặc làm không đúng nghề, không đúng với
trình độ đào tạo. Thực tế hiện nay, có một số lượng khá lớn người có
bằng cử nhân, bằng thạc sỹ, sau một thời gian thất nghiệp phải chấp nhận
đi học nghề để có cơ hội tìm việc làm, hoặc phải đi xin việc với mức
lương của lao động phổ thông. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng công nhân
kỹ thuật ở các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn nhưng lại thiếu nguồn
tuyển; nguồn nhân lực có trình độ đại học lại quá thừa và không đáp ứng
yêu cầu.
Đồng chí Phạm Như Nghệ (Bộ Giáo dục
& Đào tạo) cho rằng việc phân luồng học sinh sau THCS và THPT vào
học trong các cơ sở giáo dục nhà nước cần có định hướng của cơ quan quản
lý nhà nước cấp Trung ương và chính quyền địa phương. Phân luồng học
sinh phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, nhu cầu của địa phương
và của cả nước, làm cho đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội. Nhà nước cần
có sự quan tâm đặc biệt đối với những địa phương còn có điều kiện kinh
tế khó khăn, chất lượng giáo dục phổ thông còn hạn chế. Hệ thống giáo
dục quốc dân phải đảm bảo điều kiện thuận lợi nhất cho việc phân luồng
cũng như việc học tập suốt đời của người dân.
Để nâng cao chất lượng tham mưu của Ban
Tuyên giáo các tỉnh, thành ủy về công tác phân luồng học sinh sau trung
học, cần chú trọng một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, đổi mới công tác
tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, triển khai thực hiện Chỉ thị, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của nhà nước đối với thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, đặc
biệt chú trọng công tác phân luồng học sinh. Nâng cao nhận thức cho các
cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, nhất là đối với người dân
về lợi ích của việc dạy nghề và phân luồng học sinh sau trung học.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục đào tạo theo hướng đổi mới
mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục, coi trọng công tác định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Đổi mới căn bản hình thức, phương pháp thi,
kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo theo yêu cầu phát
triển phẩm chất và năng lực người học phục vụ phân luồng học sinh.
Thứ ba, rà soát, sửa đổi bổ
sung chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân tích cực
tham gia vào quá trình giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm công bằng xã hội về
cơ hội học nghề đối với mọi đối tượng, khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề.
Thứ tư, đổi mới cơ chế quản lý.
Quản lý nhà nước trong giáo dục và đào tạo tập trung xây dựng và chỉ
đạo thực hiện chiến, quy hoạch, kế hoạch dạy nghề, hoàn thiện môi trường
pháp lý, cơ chế chính sách và dạy nghề, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện.
Cơ quan quản lý nhà nước không làm thay đổi công tác quản trị của các cơ
sở giáo dục và đào tạo.
Thứ năm, định hướng, điều chỉnh
phân luồng học sinh theo các hướng giáo dục khác nhau của toàn bộ hệ
thống giáo dục phù hợp với định hướng phát triển nhân lực quốc gia. Đổi
mới công tác giáo dục và tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông.
Thứ sáu, quy hoạch mạng lưới
các trường cao đẳng, TCCN, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và các cơ sở
đào tạo, các trung tâm dạy nghề, giáo dục thường xuyên và giáo dục kỹ
thuật tổng hợp – hướng nghiệp, đi đối với việc không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của địa phương và
của các ngành kinh tế.
Phát triển mô hình giáo dục gắn dạy chữ
với dạy nghề, trên cơ sở nghiên cứu sáp nhập vào các trung tâm GDTX, kỹ
thuật tổng hợp – hướng nghiệp.
Thứ bảy, đầu tư mở rộng quy mô
và chú ý điều chỉnh cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với nhu cầu nguồn nhân
lực theo quy hoạch quốc gia, từng địa phương, từng ngnafh, ưu tiên đào
tạo nguồn nhân lực ở những vùng còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ tám, xây dựng hệ thống cơ
quan làm công tác dự báo nhu cầu nhân lực, nhu cầu đào tạo quốc gia, cơ
cấu trình độ đào tạo theo vùng miền, cung cấp thông tin, giúp cho Chính
phủ trong việc chỉ đạo điều hanhgf các bộ, ngành, doanh nghiệp chuẩn bị
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Giảm chỉ tiêu
tuyển sinh vào đại học cao đẳng, nhất là những ngành đã thừa nhân lực.
Thu Hằng