1. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đến những bến bờ thắng
lợi; đồng thời, là một danh nhân văn hóa thế giới, nên Người luôn hiểu
rõ và thực hành các chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc, đồng thời kế
thừa những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Với tầm vóc của một nhân
cách lớn, không phải đến khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, có vị trí
và vai trò ngày càng vững chắc trong lòng nhân dân, được lịch sử ghi
nhận qua những thắng lợi vĩ đại do Đảng lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc; mà ngay từ khi Đảng ta còn ở buổi sơ khai, đến những
ngày đầu chính thức cầm quyền sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ, đảng viên
về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời của người cách mạng.
Khi
Đảng còn chưa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm của các
dân tộc phương Đông là luôn tôn trọng và đánh giá cao những tấm gương
đạo đức trong sáng, cao cả, hết lòng phụng sự Tổ quốc, đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Những bậc vua sáng, tôi hiền trong lịch
sử từ xa xưa có công mở mang bờ cõi, giữ yên sự vững bền của xã tắc, cho
đến những bậc tiên hiền, những vị có công lập làng, giữ xóm… luôn được
nhân dân ghi nhận, tôn làm thánh, thờ làm thành hoàng và truyền tụng từ
đời này qua đời khác. Vì thế, ngay từ đầu những năm 1920, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khái quát đặc điểm này của dân tộc Việt Nam nói riêng, các
dân tộc Á Đông nói chung, để đưa ra chỉ dẫn cần thiết cho mỗi người cộng
sản trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giữ vững sự tin
yêu của quần chúng nhân dân: Đối với các dân tộc Á Đông, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền.
Năm 1927, qua tác phẩm Đường cách mệnh,
Người đã chỉ rõ những yêu cầu về đạo đức của người cộng sản, về tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng. Tu dưỡng, rèn luyện theo những chỉ
dẫn đó, các lớp đảng viên tiền bối của Đảng đã cống hiến, hy sinh cả
cuộc đời mình để tô thắm thêm đạo đức trong sáng của người cách mạng,
nên đã thuyết phục được nhân dân một lòng một dạ tin vào Đảng, đi theo
Đảng. Cũng vì thế, mặc dù chỉ có chưa tới năm nghìn đảng viên, Đảng ta
đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đem lại độc lập cho
dân tộc sau hơn 80 năm dưới ách thực dân xâm lược, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, các cán bộ, đảng
viên của Đảng đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, tỏ rõ sự
xứng đáng với danh hiệu đảng viên cộng sản cao quý. Từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, thì những đảng viên của Đảng trở
thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính quyền từ Trung
ương đến cơ sở công tác trong hoàn cảnh, điều kiện mới, khi kẻ thù
trước mặt không chỉ là quân thù và hy sinh, mất mát là mạng sống cá nhân, mà còn
phải đối diện với những “viên đạn bọc đường”, luôn làm xao động ý chí
phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện của họ để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Nhận
thấy rõ điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ,
đảng viên về nghĩa vụ của họ trước quốc dân, đồng bào và chỉ rõ: Đảng
không phải là tổ chức để làm quan, phát tài, mà là để phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; vì thế,
đảng viên phải luôn rèn luyện, phấn đấu, luôn sẵn sàng hy sinh, cống
hiến cho sự nghiệp cách mạng. Những lời căn dặn, nhắc nhở của Người giúp
đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, thấy rõ những tiêu chí cần phải
kiên trì tu dưỡng, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu để xứng đáng với sự mong
đợi, kỳ vọng của quần chúng nhân dân, với nhiệm vụ do Đảng giao phó,
xứng với danh hiệu đảng viên cộng sản.
Những
yêu cầu đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong nhiều bài nói, bài
viết ngay từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, gửi đội ngũ cán bộ, đảng viên và bộ máy chính quyền các
cấp, ở các vùng, miền và thể hiện tập trung hơn cả chính là ở tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
năm 1947. Đây có thể xem như một bộ tổng tập đầu tiên về những tiêu
chuẩn của người cán bộ cách mạng, người đảng viên cộng sản, về yêu cầu
và chỉ dẫn đối với hoạt động của chính quyền cách mạng, là sự cảnh báo
về những thói hư, tật xấu mà người cán bộ, đảng viên hay mắc phải, để từ
đó đề ra biện pháp phòng, chống những thói hư, tật xấu đó. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đảng ta cầm quyền trên một nửa lãnh thổ
trong điều kiện phải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với miền
Bắc và chi viện cho phong trào cách mạng miền Nam đấu tranh giải phóng
đất nước. Khi đó, những thói hư, tật xấu trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu tới uy tín, sự vững mạnh, hiệu quả
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhận thức rõ nguy cơ này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là tác phẩm Đạo đức cách mạng, viết năm 1955; tác phẩm Đạo đức cách mạng, viết năm 1958, đặc biệt là tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân viết năm 1969.
2. Tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng việc nêu bật những thành tích của
Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Có được những thành tích đó
là nhờ đông đảo đảng viên luôn kiên trì phấn đấu theo lý tưởng của
Đảng, trở thành những người đi trước mở đường, dẫn dắt quần chúng nhân
dân chinh phục những cột mốc trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do,
hạnh phúc của dân tộc. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, vẫn “còn
có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”(1), họ chính là những người “mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết”(2).
Vì sa vào chủ nghĩa cá nhân, nên họ “tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa…
coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền”(3),
họ cũng “mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần
trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của
Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(4).
Để
ngăn chặn và đẩy lùi căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và
đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình
nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng
thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải
nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của
Đảng phải chặt chẽ”(5). Về phía mỗi đảng viên, Người yêu cầu
phải “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết,
trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng,
bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ
luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập,
rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”(6).
Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan của chủ nghĩa cá nhân. Nguyên nhân chủ quan, là do những cá nhân này thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên “phẩm chất, đạo đức còn thấp kém”. Nguyên nhân khách quan,
có nguyên nhân từ thực tế xã hội khi những tồn dư do xã hội cũ để lại
từ lối mòn suy nghĩ, đã tác động không tốt tới nhận thức chính trị của
một số đảng viên, khiến cho họ tuy là đảng viên nhưng chưa thực sự xứng
đáng với tư cách đảng viên cộng sản. Bên cạnh đó, một số cấp
ủy, tổ chức đảng chưa nghiêm túc trong thực hiện việc theo dõi, bồi
dưỡng, đánh giá trước khi kết nạp quần chúng vào Đảng; sau khi kết nạp
đảng, không nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng,
như tự phê bình và phê bình, tập trung dân chủ… trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị cũng như trong sinh hoạt hằng ngày. Những hạn chế đó khiến
cho một số cán bộ, đảng viên thiếu sự rèn luyện, tu dưỡng, ít được kiểm
tra, giúp đỡ trong công việc và sinh hoạt hằng ngày, nên đã làm cho căn
bệnh cá nhân chủ nghĩa phát sinh và ngày càng trầm trọng.
Để ngăn ngừa và đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những biện pháp căn bản. Thứ nhất,
mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên trì, quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, phải “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân
lên trên hết, trước hết”, “phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao
trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”. Thứ hai, tổ chức
đảng các cấp phải tăng cường việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về
các tiêu chí của người cộng sản; trong đó, cần chú ý “về lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức
của người đảng viên”. Thứ ba, thực hiện nghiêm các biện pháp
xây dựng Đảng về tổ chức, như “Phải thực hành phê bình và tự phê bình
nghiêm chỉnh trong Đảng… Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ
luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt
chẽ”. Thứ tư, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo đó tổ chức đảng các cấp “Phải hoan
nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”.
Những
chỉ dẫn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn
luôn là kim chỉ nam cho mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cũng như mỗi đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, tiến hành công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, cũng như trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức người cộng sản
một cách hiệu quả.
3.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những chỉ dẫn quan trọng
của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng xứng đáng với sự tin yêu
của nhân dân, thời gian tới, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần tiếp tục
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện có hiệu quả những nội dung
Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Một là,
làm tốt việc giáo dục lý tưởng cách mạng, quan điểm, đường lối của Đảng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của toàn hệ thống chính trị và lan tỏa
trong nhân dân, để quan điểm, đường lối chính trị khoa học, cách mạng
trở thành dòng chủ lưu chính chi phối suy nghĩ, hành động của toàn thể
đội ngũ cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt; chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường
lối của Đảng là định hướng quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị của cả hệ thống chính trị, góp phần bảo đảm kết quả thực hiện nhiệm
vụ dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt yêu cầu, mục đích đề ra.
Giáo dục lý tưởng cách mạng, quan điểm, đường lối của Đảng cho đoàn
viên, thanh niên (Trong ảnh: Đoàn viên, thanh niên thành phố Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh tham quan Khu lưu niệm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại
phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). (Ảnh: TTXVN)
Thời
gian qua, bên cạnh những thành quả đã đạt được, vẫn còn tình trạng
“việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời… Một bộ phận cán
bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng
chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(7). Để khắc phục
những hạn chế này, thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các
ngành phải: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt
Nam”, “Công tác tư tưởng phải… làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực thấm
sâu vào toàn bộ đời sống xã hội”(8).
Hai là,
làm tốt công tác phát triển đảng viên. Trong thời gian qua, việc “Kết
nạp đảng viên một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức
chất lượng… Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được
quan tâm đúng mức, việc rà soát, sàng lọc đảng viên chưa thường xuyên,
thiếu cương quyết”(9).
Để
khắc phục những hạn chế đó, đồng thời nâng cao chất lượng đảng viên,
thời gian tới, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tập trung thực hiện các
nhiệm vụ, giải pháp mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là: “Nâng cao chất
lượng kết nạp đảng viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào
Đảng những đoàn viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong
lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên là công nhân, trí
thức, doanh nhân để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp”(10). Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/1/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về
tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Cần làm tốt công tác lựa chọn,
bồi dưỡng các quần chúng ưu tú và việc rèn luyện, thử thách cán bộ, đảng
viên trong thực tiễn cách mạng. Cần tuân thủ nghiêm chỉ dẫn của V.I.Lênin trong phát triển đảng viên là “thà ít mà tốt”. Đảng vững mạnh
không phải ở số lượng đông đảo đảng viên, mà ở sức mạnh to lớn, đầy
thuyết phục do những thành viên xứng đáng với danh hiệu người đảng viên
cộng sản thể hiện trước quần chúng nhân dân, trong thực tiễn cách mạng
của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là,
tổ chức đảng các cấp cần tuân thủ nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt đảng, như tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,… nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị và tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Sức mạnh của Đảng nói
chung, của mỗi tổ chức đảng nói riêng là ở sự đồng tâm nhất trí của tập
thể cùng quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ; cùng hy sinh, phấn đấu cho
lý tưởng; cùng giúp nhau chiến thắng những kẻ thù ẩn sâu bên trong bản
thân mỗi người - những suy nghĩ mang tính cá nhân ích kỷ, không vì lý
tưởng, sự nghiệp chung…
Thời
gian qua, “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình
trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ
phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của
mình đối với nhiệm vụ được giao”(11). Để khắc phục, đẩy lùi
những hạn chế, khuyết điểm nói trên của đảng viên, tổ chức đảng, thời
gian tới cần “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ;
tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi
phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng… Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả
tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng,
đảng viên hằng năm”(12).
Bốn là,
phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng chỉ hoàn thành được sứ
mệnh của mình khi luôn hướng mọi hoạt động của mình vào phục vụ nhân
dân; giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Thời gian qua, tổ chức
đảng các cấp, bên cạnh những thành tích đạt được trong việc phục vụ
nhân dân, cũng như việc bảo đảm chịu sự giám sát, giúp đỡ của nhân dân,
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục, đó là: “Giám sát của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa
thường xuyên, hiệu quả thấp”(13). Vì thế, thời gian tới, cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần đặc biệt “Coi
trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai
trò giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên… Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của
các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt”(14)./.
Hoàng Nguyễn (tapchicongsan.org.vn)
_____________________
(1) (2) (3) (4) (5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.546, 546-547, 547, 547, 547, 547.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.168.
(8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr. 231-232, 190, 241-242, 179, 241, 179, 238.