Không chỉ đề cao vai trò, tầm quan trọng của người lãnh đạo: “Một người lo bằng kho người làm”, triết lý người Việt còn nhắc nhở những ai ở cương vị đó phải biết giữ gìn nhân cách, bởi “nhà dột từ nóc”.
Lại có câu ca dao: “Người trên ở chẳng
chính ngôi/ Để cho bề dưới chúng tôi hỗn hào” là chân lý cũng là đạo lý,
vì người lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp cao không chỉ phải “lo” đường
lối chiến lược, hoạch định chính sách... mà còn phải là mẫu mực nhân
cách có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng.
Thế nhưng vừa qua, có không ít vị lãnh đạo cấp
cao lại “nhúng chàm” để rồi đang ở đỉnh cao quyền lực rơi xuống đáy
thân phận bị cáo, trở thành “tấm gương mờ” để người đời bêu riếu...
“Tài” và “đức” là hai phạm trù cơ bản cấu thành nhân cách người lãnh
đạo. Họ có thể có “tài” nhưng còn thiếu “đức”. Bác Hồ từng dạy người
cách mạng phải lấy đức là nguồn, là gốc: “Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(1). Những “tấm gương mờ”
kia còn thiếu đạo đức cách mạng nên sức yếu, không “gánh được nặng” và
chẳng “đi được xa”.
Bốn cái cột chống vững chắc của ngôi nhà đạo đức cách mạng, theo Bác
Hồ là “cần, kiệm, liêm, chính”. Ngày Quốc khánh 2/9/1947, Người viết bài
"Cán bộ và đời sống mới" giải thích rõ vấn đề, đặc biệt nhấn mạnh đến
sự “thực hành”: “Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự
mình làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong
sạch, chính đáng. Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn được lòng
dân, thì cũng như bắc dây leo trời”(2). Câu nói mang ý nghĩa thời sự sâu
sắc, như là nói với hôm nay!
Một phẩm chất hàng đầu của người lãnh đạo là uy tín. Tham ô, đục
khoét tức “vô liêm”, không trong sạch thì làm sao “được lòng dân”. Người
xưa rất coi trọng chữ “liêm”. Cụ Khổng Tử mỉa mai: “Người mà không
liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử trăn trở: “Ai cũng tham lợi, thì
nước sẽ nguy”. Bác Hồ kế thừa các tinh hoa tư tưởng ấy và minh họa một
trường hợp cụ thể. Trong "Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng
sang Pháp", Người có nói về “tấm gương” của Napoléon “đại tài nhưng tham
lam”, từ một anh lính làm đến tổng tư lệnh rồi hoàng đế, vẫn chưa thấy
đủ, ông còn muốn làm chúa cả thế giới: “Nếu ông Napoléon mà biết dè dặt,
không tham muốn quá chừng, thì chắc nước Pháp lúc đó không đến nỗi vì
chiến tranh mà chết người, hại của. Mà ông Napoléon cũng giữ được địa vị
thiên tử trong một nước giàu mạnh ở Âu châu. Nhưng ông Napoléon đã làm
con giời lại muốn làm cả giời, kết quả bị rơi xuống đất... Xưa nay đã
nhiều người vì không “tri túc” (chừng mực) mà thất bại”(3). Là người có
tài, lại ở vị trí lãnh đạo cao nhất nhưng “kết quả bị rơi xuống đất”,
theo Bác Hồ có 3 lý do là “tham lam”, “không khiêm tốn”, “không biết
lượng sức mình”. Vì thế mà ông ta mắc bệnh cuồng vọng “đã làm con giời
lại muốn làm cả giời”. Hậu quả do người lãnh đạo gây ra, không chỉ mình
người đó mà còn cả cộng đồng phải gánh chịu, có khi rất nặng nề.
Soi vào một vài trường hợp cán bộ lãnh đạo cấp cao vừa rồi bị kỷ
luật, không thể so sánh về tài năng, nhưng về nguyên nhân và “kết quả”
thì thấy họ cũng gần giống như Napoléon vậy!
Phật giáo coi tính “tham” là nguyên nhân đầu tiên dẫn con người đến
“bể khổ”. Khổng Tử coi sự “tham lợi” chỉ có ở kẻ “tiểu nhân”. Bác Hồ dạy
cán bộ phải biết: “Ít lòng tham muốn về vật chất”! Mọi cán bộ đều phải
thế, cán bộ lãnh đạo càng phải thế!
Về giải pháp ngăn chặn, căn cứ vào tư tưởng biện chứng của Lênin từ
“trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, đối chiếu với quan niệm về
đặc trưng tâm lý người lãnh đạo mới nhất của thế giới hiện nay, thì lời
Bác Hồ dạy vẫn là bài học đúng đắn, thiết thực. Cụ thể nhất là lấy gương
người tốt-việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau. Đây là một truyền
thống văn hóa phương Đông mà chính Bác Hồ giải thích: “Nói chung thì các
dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Ở phương
Tây, một số vị tổng thống khi nhậm chức thường đặt tay lên cuốn Kinh
Thánh là một cách “hứa” sẽ làm theo những lời dạy mẫu mực, tức cũng coi
đó là tấm gương. Vấn đề ở chỗ “làm gương” như thế nào, bằng cách nào?
Ở ngay lĩnh vực giáo dục cán bộ, đảng viên, Bác Hồ đã là nhà giáo dục
lớn với tư tưởng và các biện pháp mang tính hệ thống, toàn diện, phù
hợp. Theo Người, lấy những tấm gương “đảng viên đã vì Đảng, vì giai cấp,
vì dân tộc mà oanh liệt hy sinh như đồng chí Lê Hồng Phong, Trần Phú,
Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Minh
Khai, cùng trăm nghìn đồng chí khác... Máu xương của các tiên liệt đã
thấm nhuần gốc rễ của Đảng ta, làm cho cây nó càng vững, ngành nó càng
to, và kết quả khai hoa ngày càng rực rỡ”(4). Hình tượng ẩn dụ “cây”
Đảng ta tươi tốt là nhờ “gốc rễ” được “thấm nhuần” máu xương của các bậc
tiền bối thật giàu ý nghĩa biểu cảm này được Người nhiều lần nhắc lại.
Thế hệ lãnh đạo đầu tiên ấy đã hy sinh trọn vẹn, tuyệt đối cho dân tộc,
xứng đáng là tấm gương cho mọi thế hệ kế tục học tập, noi theo.
Bác Hồ từng
nhấn mạnh những cán bộ chủ chốt, cấp cao phải tiên phong trong việc nêu
gương. Trong "Bài nói chuyện tại phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính
phủ năm 1963", Người nhắc nhở: “Một điều rất quan trọng nữa là các đồng
chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về
mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: Cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không
ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc. Có như thế mới xứng đáng với đồng bào miền Nam đang
chiến đấu vô cùng anh dũng chống đế quốc Mỹ và tay sai của chúng để giải
phóng miền Nam và hòa bình thống nhất nước nhà. Nhân dân ta rất tốt.
Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó
khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(5). Không chỉ là lời dạy về nội
dung, còn là vấn đề phương pháp luận: Phải lấy tấm gương sáng nhất, cụ
thể mà gần gũi để giáo dục. Thời điểm ấy, với các bộ trưởng, thứ
trưởng... thì có tấm gương nào “sáng” hơn “đồng bào miền Nam đang chiến
đấu vô cùng anh dũng”.
Một số cán bộ lãnh đạo mắc khuyết điểm vừa qua có nguyên nhân là phai
mờ lý tưởng cộng sản, nhạt phai tinh thần tự nguyện cống hiến, hy sinh
vì cách mạng, vì dân nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, đúng như Bác nói, họ
“coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài”(6). Xa dân nên
thành “quan cách”, không đoái hoài đến đời sống của dân, không chỉ không
“cần kiệm” mà còn xa hoa, lãng phí. Do vậy quy trình bổ nhiệm cán bộ
cấp cao cần hết sức chặt chẽ. Nhất thiết cán bộ đó phải kinh qua những
cương vị lãnh đạo gần với dân, hiểu dân. Bởi có vậy họ mới thấm thía
“một hột gạo, một đồng tiền, tức là một số mồ hôi nước mắt của đồng bào”
nên có ý thức chi tiêu, sử dụng bất cứ cái gì cũng phải nghĩ đó là của
dân. Chỉ khi nghĩ được như lời Bác dạy “hoang phí là một tội ác” thì mới
biết trân trọng, giữ gìn tài sản của dân và danh dự của mình.
Những vụ việc ấy cho thấy bài học là còn nhiều cơ quan, tổ chức đảng
coi nhẹ công tác tự phê bình và phê bình. Điều ấy có lý do từ căn tính
tiểu nông cả nể đã ngàn xưa, với cán bộ chủ chốt thì sự cả nể càng tăng
lên nhiều. Lại thêm tâm lý “chín bỏ làm mười”, “xuê xoa”, “an phận thủ
thường”, “đấu tranh là... tránh đâu”... nên lãnh đạo mắc khuyết điểm
ngày thêm nặng mà không được góp ý, chỉ ra, ngăn chặn.
Rất nhiều lần Bác Hồ nhắc cán bộ phải “gương mẫu”, “nêu gương”, phải
là “đầu tàu”... Không ít lần, Người mượn lời Khổng Tử dạy cán bộ mình có
đứng đắn, trong sáng mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên
hạ... Những lời dạy ấy không chỉ đúng với đạo lý mà còn là khoa học,
biện chứng. Để có uy tín, để là tấm gương sáng, với người lãnh đạo - theo
lời Bác dạy là phải “thực hành trước” các nguyên tắc “Cần, kiệm, liêm,
chính”, “chí công”, “vô tư” . Một phương pháp sư phạm đã trở thành chân
lý: Cách tốt nhất để giáo dục, thuyết phục người khác là giáo dục,
thuyết phục bằng chính nhân cách mình!./.
PGS. TS. Nguyễn Thanh Tú
_______________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.9, tr.283.
(2) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.208-209, 548.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.358.
(5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.186, 374.
(Nguồn: qdnd.vn)