TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
Ngày
5/6/1911, từ bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh lên đường
sang Pháp để học hỏi những điều tinh hoa và tiến bộ từ các nước trên thế
giới nhằm thực hiện công cuộc giải phóng Việt Nam khỏi ách thuộc
địa của thực dân Pháp. Có thể nói, hành trình đầu tiên trên con đường
cứu nước của Người là hành trình của một người dân yêu nước, và những
người bạn đầu tiên của Người là những người dân lao động. Đó cũng là lý
do, cơ sở để Người từng bước hình thành và phát triển quan điểm, nguyên
tắc và nội dung, phương thức của công tác đối ngoại, trong đó có đối
ngoại nhân dân.
Ngay
từ thập niên 20 của thế kỷ XX, Người xác định và trực tiếp tổ chức thực
hiện hai quan điểm cơ bản về đối ngoại, đó là đoàn kết với giai cấp vô
sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và gắn cách mạng ở thuộc địa
với cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế giới trong đó có nhân dân
lao động Pháp. Hoạt động vận động quốc tế của Người lúc đó chính là hoạt
động đối ngoại nhân dân. Trong giai đoạn này, Người viết báo, viết
sách, nói chuyện về tình cảnh nước ta chịu áp bức dưới chế độ thực dân
Pháp, tổ chức vận động nhân dân Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu
Phi đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam.
Từ
sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam hình thành một
cách hoàn chỉnh, bao gồm công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ đạo thành lập những
tổ chức đối ngoại nhân dân đầu tiên của Việt Nam là Hội Việt - Mỹ thân
hữu (năm 1945), Hội Việt - Trung hữu hảo (năm 1950), sớm cử đoàn đại
biểu Việt Nam tham dự Đại hội nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình tại Thủ
đô Pra-ha (Séc) và Thủ đô Pa-ri (Pháp) năm 1949, thành lập Ủy ban Bảo vệ
Hòa bình thế giới của Việt Nam (năm 1950). Điều đó cho thấy, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và xác định đối ngoại nhân dân là
một bộ phận cấu thành của công tác đối ngoại chung, hỗ trợ và phối hợp
chặt chẽ với công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước trong việc
thực hiện nhiệm vụ, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng.
Kế
thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ những ngày đầu thành lập
Đảng, các kỳ đại hội của Đảng ta đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của
đối ngoại nhân dân đối với cách mạng Việt Nam, trong đó, ngay tại Đại
hội II (năm 1951), Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam khẳng định:
“Mở rộng ngoại giao nhân dân... Phối hợp cuộc kháng chiến của ta với các
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới, nhất là của nhân dân Liên Xô,
Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, của các dân tộc bị áp bức,
của nhân dân Pháp”(1). Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đề ra
mục tiêu đối ngoại là “giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội”(2). Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng nêu rõ, “mở rộng
quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển”(3).
Đến
Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng nền ngoại giao
toàn diện, hiện đại với ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước
và đối ngoại nhân dân”(4). Đây không chỉ là sự kế thừa chủ
trương, đường lối, quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn
là một bước phát triển quan trọng đối với vai trò, vị trí của đối ngoại
nhân dân Việt Nam trong tình hình mới.
Quán
triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta, đối
ngoại nhân dân đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của
dân tộc qua nhiều thời kỳ. Không quá khi nói rằng, Việt Nam xứng đáng là
một điển hình trên thế giới về thành công trong vận động sự ủng hộ của
quần chúng nhân dân thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Trong thực tiễn nước ta, đối ngoại nhân dân được vận dụng và phát huy
hiệu quả trong từng giai đoạn cách mạng. Trước khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động triển khai các hoạt động đối
ngoại nhân dân để phục vụ mục tiêu cao nhất lúc đó là giải phóng dân
tộc. Người tiên phong mở đường và trực tiếp triển khai, đưa đối ngoại
nhân dân trở thành một kênh đối ngoại quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam trước khi nước ta có kênh liên lạc chính thức với các nước.
Đây chính là cơ sở quan trọng để Việt Nam tạo nền tảng quan hệ thân
thiện, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối ngoại nhân dân đã phát triển
vượt bậc với nhiều hình thức sáng tạo và độc đáo, ghi dấu ấn trên thế
giới về sự thành công trong vận động quần chúng thế giới, mang tiếng nói
của nhân dân Việt Nam tới nhân dân các nước thuộc địa và các nước tiến
bộ trên toàn cầu, tạo mặt trận nhân dân đoàn kết rộng khắp ủng hộ Việt
Nam. Mặt trận đó bao gồm mọi tầng lớp nhân dân ở các nước có chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên khắp năm châu, từ người dân lao động
bình thường đến các nhà hoạt động chính trị, nghị sĩ, trí thức, nhà
báo,...; bao gồm từ các tổ chức quần chúng, xã hội, các đảng phái chính
trị và cả chính phủ ở nhiều nước, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa (như
I-ta-li-a, Thụy Điển, Đan Mạch, Anh, Nhật Bản...) đến các tổ chức quốc
tế, như Hội đồng Hòa bình thế giới, Tổ chức Đoàn kết nhân dân Á - Phi,
các tổ chức phụ nữ, thanh niên, sinh viên, công đoàn dân chủ quốc tế...
Sau
khi nước nhà thống nhất vào năm 1975, bên cạnh những thuận lợi, Việt
Nam cũng đứng trước những khó khăn, thách thức do hậu quả chiến tranh,
sự bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, sự chống phá của các
thế lực thù địch, phản động. Trong bối cảnh đó, đối ngoại nhân dân đã
cùng với đối ngoại đảng và ngoại giao nhà nước chủ động thực hiện tốt
nhiệm vụ “đi trước mở đường, phá thế bao vây, cấm vận”, tiếp tục củng cố
quan hệ với nhân dân Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và một
số nước độc lập dân tộc, với các tổ chức quốc tế, như Hội đồng Hòa bình
thế giới, Tổ chức Đoàn kết nhân dân Á - Phi và các tổ chức dân chủ quốc
tế (thanh niên, phụ nữ, công đoàn, luật gia...), tranh thủ những điều
kiện quốc tế thuận lợi để khắc phục hậu quả chiến tranh và tình trạng
trì trệ khủng hoảng về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại
hội VI của Đảng đánh dấu mốc sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, hoạt
động đối ngoại bắt đầu chuyển theo hướng rộng mở. Đối ngoại nhân dân
góp phần tích cực vào việc bình thường hóa quan hệ với các nước Trung
Quốc, Mỹ, tăng cường mối quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào, giữ vững
quan hệ hữu nghị với Cam-pu-chia, duy trì quan hệ với Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong khi các nước này lâm vào khủng
hoảng, mở rộng một bước quan hệ với một số nước Á, Phi, Bắc Âu, Tây Âu,
Nhật Bản. Công tác đối ngoại nhân dân cũng góp phần duy trì hoạt động
của các tổ chức dân chủ quốc tế trong bối cảnh khó khăn sau sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.
Trong
thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, các tổ chức quần chúng, tổ chức nhân
dân Việt Nam đã chủ động và tích cực mở rộng, tăng cường quan hệ hòa
bình, hữu nghị, hợp tác với nhân dân thế giới và có những đóng góp quan
trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cho đến nay, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã thiết lập
quan hệ hữu nghị, hợp tác với hàng nghìn tổ chức đối tác và cá nhân trên
thế giới. Công tác đối ngoại nhân dân đã đóng góp rất tích cực đối với
việc tăng cường quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước. Với các
nước láng giềng chung biên giới (Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia) và các
nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các tổ chức nhân
dân Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động hữu nghị, hợp tác
có ý nghĩa thiết thực với nhiều hình thức đa dạng, phong phú(5);
ký kết và triển khai các thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực; coi
trọng các hoạt động “từ trái tim đến trái tim” thông qua việc tổ chức
các cuộc gặp gỡ hữu nghị nhân dân, các diễn đàn hợp tác nhân dân, các
hoạt động tuyên truyền, các cuộc thi tìm hiểu về truyền thống quan hệ
giữa Việt Nam với các nước ở các cấp từ Trung ương đến địa phương...,
thu hút sự tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp nhân dân, qua đó không
chỉ góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, tin cậy
lẫn nhau, tăng cường giao lưu và hợp tác nhân dân, giáo dục truyền
thống cho các tầng lớp nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ, mà còn tạo ra
các cơ chế giao lưu quan trọng để các học giả, nhà nghiên cứu và các
chuyên gia gặp gỡ, trao đổi cởi mở, thẳng thắn trên tinh thần xây dựng
về những vấn đề còn khác biệt.
Với
các nước lớn như Mỹ, cùng với việc làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối
tác truyền thống là các tổ chức cánh tả, tiến bộ, các tổ chức cựu chiến
binh, tổ chức hòa bình, hữu nghị, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã mở
rộng quan hệ với các tổ chức xã hội, các trường đại học, trung học,
trung tâm, viện nghiên cứu, tổ chức của con em của các binh sỹ Mỹ mất
tích trong chiến tranh ở Việt Nam; tích cực vận động các tổ chức và cá
nhân góp phần vào việc thúc đẩy hòa giải, tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
khắc phục hậu quả chiến tranh và tham gia vào công tác tìm kiếm quy tập
hài cốt liệt sỹ Việt Nam và quân nhân Mỹ mất tích (MIA).
Bên
cạnh đó, các hoạt động hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước bạn bè
truyền thống và đối tác quan trọng (Cu-ba, Nga và các nước thuộc Liên
Xô trước đây, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các đối tác ở Đông và Tây Âu,
Mỹ và các nước Mỹ La-tinh, nhiều nước khác ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, Trung Đông, châu Phi,...) cũng tiếp tục được thúc đẩy. Công tác
đối ngoại nhân dân không chỉ giúp tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết
truyền thống, tin cậy lẫn nhau, mà còn tạo ra một kênh trao đổi quan
trọng để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm cũng như trao đổi cởi mở, thẳng
thắn với các đối tác trên tất cả vấn đề.
Trên
kênh đa phương, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã tham gia tích cực và
có trách nhiệm tại các cơ chế hợp tác nhân dân truyền thống, như Hội
đồng Hòa bình thế giới, Tổ chức đoàn kết nhân dân Á - Phi, Tổ chức Quốc
tế ngữ toàn cầu, các tổ chức dân chủ (thanh niên, phụ nữ, công đoàn,
luật gia...), Hội nghị thế giới chống bom nguyên tử và khinh khí, mà còn
phát huy vai trò và thể hiện tiếng nói tại các diễn đàn và cơ chế của
Liên hợp quốc (Hội đồng Kinh tế Xã hội(6), các cơ chế về nhân
quyền), ASEAN (Diễn đàn Nhân dân ASEAN, Ủy ban Liên chính phủ ASEAN về
nhân quyền và các cơ chế hợp tác về Mê Công), Diễn đàn Nhân dân Á -
Âu... Các tổ chức nhân dân Việt Nam đã đăng cai tổ chức rất nhiều hoạt
động nhân dân đa phương quan trọng tại Việt Nam, trong đó phải kể đến
Đại hội lần thứ XXII Hội đồng Hòa bình tại Việt Nam (năm 2022), Diễn đàn
Nhân dân ASEAN (năm 2010 và 2020), Diễn đàn Nhân dân Á - Âu (năm 2004),
Đại hội Quốc tế ngữ toàn cầu (năm 2012) và Đại hội Quốc tế ngữ châu Á -
châu Đại Dương (năm 2019)... Chúng ta cũng đã có rất nhiều đóng góp
chung cho việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực, đặc biệt là
chống vũ khí hạt nhân(7), thúc đẩy việc thực hiện các Mục
tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên hợp quốc, ứng phó với biến đổi
khí hậu,... thể hiện trách nhiệm của Việt Nam nói chung và các tổ chức
nhân dân Việt Nam nói riêng đối với cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao
uy tín của các tổ chức nhân dân Việt Nam.
Nhờ
có mạng lưới đối tác rộng lớn, cũng như vai trò ngày càng được nâng cao
tại các diễn đàn, cơ chế đa phương, đối ngoại nhân dân đã có nhiều đóng
góp vào việc bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Các tổ chức nhân dân
Việt Nam đã chủ động tham gia, đóng góp vào công tác đấu tranh dư luận
trong nhiều vấn đề phức tạp, đặc biệt là trong các vấn đề dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo, Biển Đông(8), nguồn nước sông Mê
Công, các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu... và tham gia, phối hợp
chặt chẽ với các bộ, ngành trong việc xử lý những vấn đề còn tồn tại
trong quan hệ song phương giữa nước ta với một số nước.
Một
trong những điểm nhấn của đối ngoại nhân dân góp phần phát triển kinh
tế - xã hội chính là công tác vận động phi chính phủ nước ngoài. Trong
giai đoạn 2011 - 2020, các tổ chức nhân dân Việt Nam nói chung và Liên
hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam nói riêng có quan hệ với hơn 1.200 tổ
chức và tổng giá trị viện trợ chính phủ nước ngoài giải ngân đạt 2,85
tỷ USD không hoàn lại. Viện trợ chính phủ nước ngoài tập trung trong các
lĩnh vực, như y tế (chiếm 33,2%), phát triển kinh tế - xã hội (18,5%),
giải quyết các vấn đề xã hội (19,5%), giáo dục - đào tạo (10,6%), bảo vệ
môi trường và tài nguyên thiên nhiên (10,1%), cứu trợ khẩn cấp và tăng
cường năng lực hội nhập quốc tế.
Có
thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam, đối ngoại
nhân dân đã làm cầu nối, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên
thế giới trên nhiều lĩnh vực khác nhau, như kinh tế, giáo dục, văn hóa,
du lịch... Đối ngoại nhân dân đã cùng với đối ngoại đảng và ngoại giao
nhà nước xây dựng một nền tảng quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước, đã làm cho dư luận quốc tế hiểu rõ, hiểu
đúng, ủng hộ những vấn đề liên quan tới lợi ích chính đáng của Việt
Nam, đồng thời đóng góp cho phong trào chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình và tiến bộ xã hội.
Đạt
được những thành tựu trên chính là nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao,
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất
của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột đối
ngoại, giữa các bộ, ban, ngành, địa phương, giữa các lực lượng làm công
tác đối ngoại nhân dân, cùng với ý chí quyết tâm, nỗ lực vượt bậc của
đội ngũ cán bộ. Những thành tựu đó là bài học sâu sắc, là nền tảng vững
chắc để các thế hệ cán bộ đối ngoại nhân dân vận dụng tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh vào điều kiện mới của đất nước.
BỐI CẢNH MỚI, TÌNH HÌNH MỚI, NHIỆM VỤ MỚI
Những
năm gần đây, thế giới chứng kiến những thay đổi vô cùng nhanh chóng,
phức tạp, khó lường và chưa có tiền lệ. Cạnh tranh nước lớn ngày càng
gia tăng về mức độ, mở rộng về phạm vi và lĩnh vực, gây ra những tác
động không chỉ về an ninh - chính trị, hòa bình - ổn định, mà còn cả
kinh tế - xã hội, cấu trúc quan hệ quốc tế. Đặc biệt, trong hơn hai năm
qua, đại dịch COVID-19 cùng với cuộc xung đột Nga - U-crai-na hiện nay
đã gây ra nhiều cuộc khủng hoảng về kinh tế, xã hội, năng lượng. Bên
cạnh đó là những thách thức an ninh phi truyền thống đang vượt khỏi biên
giới các quốc gia và trở thành mối quan ngại mang tính toàn cầu.
Khu
vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có vị trí địa - chiến lược cả về kinh
tế, chính trị, quốc phòng, an ninh với hơn một nửa dân số thế giới,
chiếm 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, với nhiều tuyến đường
biển quan trọng, tiếp tục là địa bàn trọng tâm triển khai chiến lược của
các nước lớn và các quốc gia tầm trung khác. Cạnh tranh chiến lược ngày
càng gia tăng và các nước lớn ngày càng đẩy mạnh việc lôi kéo các nước
trong khu vực thông qua các cơ chế và sáng kiến mới. Đây cũng là một
trong những khu vực tồn tại nhiều “điểm nóng” chưa thể giải quyết. Những
căng thẳng tại eo biển Đài Loan (Trung Quốc), Biển Đông, bán đảo Triều
Tiên và cuộc chạy đua vũ trang là những vấn đề lớn, có nguy cơ trở thành
chiến tranh nóng.
Tình
hình thế giới và khu vực đã và đang tác động sâu sắc, nhiều chiều tới
các phong trào nhân dân trên thế giới và khu vực. Các cuộc khủng hoảng
xảy ra khắp nơi trên thế giới tác động đến đời sống nhân dân, cùng với
xu hướng dân chủ hóa đời sống quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin đã dẫn đến sự bùng nổ của các phong trào xã hội chống độc
tài, bất công, vì dân sinh, dân chủ và công bằng xã hội trên thế giới.
Các hình thức tập hợp lực lượng nhân dân ngày càng đa dạng, linh hoạt,
các diễn đàn nhân dân thế giới, liên khu vực và khu vực, đến các mạng
lưới theo chuyên đề, các tập hợp lực lượng nhân dân trên các nền tảng
mạng xã hội đang trở nên ngày càng phổ biến và phức tạp. Các quốc gia,
đặc biệt là các cường quốc, tiếp tục gia tăng xu hướng sử dụng các phong
trào, tổ chức nhân dân, “xã hội công dân” như một hình thức tập hợp lực
lượng mới, gây ảnh hưởng, cũng như chi phối, tác động, can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia khác.
Trong
bối cảnh đó, công tác đối ngoại nhân dân của nước ta đang đứng trước
những cơ hội lớn, nhưng cũng đầy thách thức, nhất là trong công tác huy
động mặt trận đoàn kết quốc tế ủng hộ Việt Nam, xây dựng nền tảng quốc
tế tích cực, thuận lợi, góp phần củng cố môi trường an ninh và phát
triển của đất nước. Đây là yêu cầu đòi hỏi các lực lượng làm công tác
đối ngoại nhân dân nói riêng và mặt trận đối ngoại nói chung phải không
ngừng nỗ lực, củng cố, đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần tạo thế và lực
mới cho đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối ngoại nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mỗi đảng viên và người dân. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
Đại
hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ của đối ngoại là: “Tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(9), trong đó đối
ngoại nhân dân được coi là một trong ba trụ cột, cùng với đối ngoại đảng
và ngoại giao nhà nước. Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 5/1/2022 của Ban Bí
thư về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả đối ngoại
nhân dân trong tình hình mới” (thay thế Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày
6/7/2011 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”) cũng khẳng định “đối
ngoại nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mỗi đảng viên
và người dân”.
Để
đáp ứng được kỳ vọng lớn lao của Đảng, phát huy ngày càng tốt hơn
phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, không ngừng nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân và có đóng góp ngày càng tích
cực hơn cho đất nước, các lực lượng làm công tác đối ngoại nhân dân,
trong đó có Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, với vai trò “nòng cốt”, như
Chỉ thị số 38-CT/TW, ngày 19/9/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Tiếp tục đổi mới, phát huy vai trò và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam trong tình hình
mới”, đã nhấn mạnh, cần quán triệt ngày càng sâu sắc một số nội dung
sau:
Thứ nhất, tiếp
tục quán triệt sâu sắc và tích cực triển khai đường lối của Đảng về đối
ngoại và đối ngoại nhân dân, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế; phát
huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; coi đối ngoại nhân dân là nhiệm
vụ của toàn hệ thống chính trị, của từng cán bộ, đảng viên và người
dân. Đối ngoại nhân dân phải tiếp tục được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
thống nhất, toàn diện của Đảng và sự quản lý tập trung, hiệu quả của
Nhà nước.
Thứ hai,
hết sức quan tâm đến công tác xây dựng lực lượng, kiện toàn, củng cố tổ
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhân dân theo hướng
tinh gọn, hiệu quả, chuyên nghiệp hóa từ Trung ương đến địa phương. Bộ
máy mạnh, cán bộ tinh thông thì mọi việc sẽ hanh thông. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(10).
Chính vì vậy, chúng ta cần tiếp tục coi trọng hơn nữa công tác đào tạo
cán bộ ngoại giao, cán bộ đối ngoại cả về trình độ, năng lực, đặc biệt
là bản lĩnh chính trị. Đồng thời, đội ngũ cán bộ đối ngoại nhân dân phải
không ngừng tự rèn luyện và trau dồi, nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn
đường lối đối ngoại của Đảng, có chuyên môn và ngoại ngữ giỏi, để ngày
càng có đóng góp xứng đáng cho nền ngoại giao “toàn diện, hiện đại” của
nước nhà.
Thứ ba,
không ngừng củng cố, xây dựng mạng lưới đối tác của đối ngoại nhân dân
theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Đối tác của đối ngoại nhân dân
không nên chỉ giới hạn ở tổ chức cánh tả, tổ chức nhân dân, các đối tác ở
các nước bạn bè truyền thống, mà cần không ngừng mở rộng quan hệ với
nhiều tổ chức, cá nhân, từ các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội,
viện nghiên cứu, đảng phái, đến các học giả, chính trị gia và cá nhân
mong muốn quan hệ hữu nghị, hợp tác với Việt Nam. Trên cơ sở đó, chúng
ta có thể huy động ngày càng nhiều nguồn lực từ bên ngoài cho công cuộc
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, cũng như tạo cơ hội để đóng góp
tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Thứ tư,
không ngừng đổi mới, tiếp tục đổi mới và đổi mới mạnh mẽ. Trong bối
cảnh thế giới có những thay đổi nhanh chóng từng ngày, từng giờ về khoa
học - công nghệ, về quan hệ quốc tế, để không bị tụt hậu, không bị “bỏ
lại phía sau”, tiếp tục vai trò “tiên phong, mở đường”, làm tròn vai trò
“trụ cột” của “nền ngoại giao toàn diện, hiện đại”, các lực lượng làm
đối ngoại nhân dân phải thực sự thay đổi về nhận thức, về cách tư duy
hiện đại, về nội dung cũng như phương thức hoạt động.
Thứ năm,
tăng cường hơn nữa sự phối hợp với đối ngoại đảng và ngoại giao nhà
nước. Trong hai cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngọn cờ chính
nghĩa, lẽ phải được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh giương cao đã được
tất cả lực lượng làm đối ngoại, trong đó có đối ngoại nhân dân hưởng ứng
và thực hiện vô cùng hiệu quả. Trong bối cảnh hiện nay, đối ngoại nhân
dân càng phải nhận thức rõ về mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với các trụ
cột đối ngoại đảng và ngoại giao nhà nước, phối hợp chặt chẽ trong xây
dựng chính sách, trong đào tạo lực lượng, chia sẻ thông tin và triển
khai các hoạt động đối ngoại. Đối ngoại nhân dân phải thực sự trở thành
cánh tay nối dài của đối ngoại đảng và ngoại giao nhà nước, từ đó tạo
nên sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Việt Nam./.
TS. PHAN ANH SƠN
Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
__________________
(1) Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ii/chinh-cuong-dang-lao-dong-viet-nam-1448.
(2) (3) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019, t.1, tr.334, 656, 162.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.162.
(5) Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam - Lào lần thứ III (năm 2012),
thứ IV (năm 2017) lần lượt được tổ chức tại Việt Nam và Lào, nhân kỷ
niệm 50, 55 năm quan hệ ngoại giao và 35, 40 năm ngày ký kết Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào; Gặp gỡ hữu nghị và hợp tác nhân dân
Việt Nam - Campuchia lần thứ III (năm 2012), thứ IV (năm 2017) lần
lượt tại Việt Nam, Campuchia để chào mừng Năm hữu nghị Việt Nam -
Campuchia và kỷ niệm 45, 50 năm quan hệ ngoại giao hai nước; tổ chức
các đoàn chuyên gia Việt Nam tại Lào thăm Lào (bắt đầu từ năm 2010, các
năm 2011, 2013, 2018, 2019), đoàn các cựu chiến binh, công dân Lào từng
kề vai sát cánh, che chở, giúp đỡ quân tình nguyện Việt Nam thăm Việt
Nam (các năm 2012, 2017); chương trình “Ươm mầm hữu nghị” đối với sinh
viên Campuchia đang học tập tại Việt Nam (bắt đầu triển khai từ năm
2012); kịp thời vận động, tự nguyện quyên góp ủng hộ nhân dân Lào khắc
phục sự cố vỡ đập tại tỉnh A-tô-pư (năm 2018), Hỗ trợ, quyên góp, ủng hộ
trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 (năm 2020)...
(6)
Hiện nay, có 4 tổ chức nhân dân Việt Nam có quy chế tư vấn phi chính phủ
tại Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc, bao gồm Quỹ Hòa bình và
Phát triển Việt Nam thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Trung
tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, Trung tâm Phát triển Nông thôn
bền vững thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
(7)
Trong các cuộc vận động thu thập chữ ký kêu gọi giải trừ vũ khí hạt nhân
của phong trào nhân dân Nhật Bản và thế giới gần đây, Tổ chức Hòa bình
Việt Nam - thành viên của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam - đã
làm đầu mối phối hợp với các tổ chức nhân dân, địa phương của Việt Nam
thu thập được số lượng chữ ký lớn nhất trên toàn cầu (Năm 2016 là 1,5
triệu/6 triệu chữ ký toàn cầu và năm 2020 là gần 1 triệu chữ ký).
(8)
Phối hợp với Ủy ban Biên giới Quốc gia và Nhà xuất bản Giáo dục và Nhà
xuất bản Thế giới biên soạn, ấn hành và tái bản cuốn sách “Việt Nam và
Biển Đông” bằng tiếng Việt (phát hành năm 2011, tái bản năm 2014 và
2017) và tiếng Anh (phát hành năm 2012, tái bản năm 2014 và 2017).
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.309.
(Nguồn: TC Cộng sản)