Cả nước
hiện có 8.868 lễ hội, trong đó có 8.103 lễ hội truyền thống, 687 lễ hội
văn hóa, 74 lễ hội ngành nghề, 4 lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài. Các
lễ hội được tổ chức rải rác vào nhiều thời điểm trong năm nhưng tập
trung nhiều nhất vẫn là dịp đầu năm mới.
Lễ hội từ lâu đã trở thành một
sinh hoạt văn hóa quen thuộc với đông đảo người dân. Mỗi lễ hội, đặc
biệt là lễ hội truyền thống chứa đựng những giá trị căn cốt về văn hóa
và lịch sử, phản ánh rõ nét bản sắc văn hóa con người Việt Nam. Chính vì
vậy nhiều năm qua việc giữ gìn, bảo vệ, tôn vinh, phát triển các giá
trị văn hóa, bao gồm hoạt động lễ hội luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, ban hành những chính sách phù hợp.
Nắm bắt xu hướng ứng
dụng công nghệ số vào các hoạt động văn hóa, từ năm 2021 Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 2139/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Đề
án Số hóa dữ liệu lễ hội tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Đề án thể
hiện sinh động mục tiêu xây dựng phát triển văn hóa số, góp phần hình
thành thế hệ công dân số cho tương lai, hướng tới hoàn thành các mục
tiêu công nghiệp hóa văn hóa, đóng góp vào thành công của Chiến lược
phát triển văn hóa Việt Nam tầm nhìn 2030 của Chính phủ. Đây cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng được nêu ra trong kết luận của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021.
Có
thể thấy đa phần các lễ hội ở nước ta hằng năm là lễ hội truyền thống,
hình thành từ rất lâu trong lịch sử, có nguồn gốc từ đời sống lao động,
sinh hoạt của người dân và theo thời gian có sự tiếp biến, có những yếu
tố mới được bổ sung.
Nhân dân sáng tạo ra lễ hội, thực hành lễ
hội, và mỗi lễ hội có nguyên tắc tổ chức riêng, mỗi địa phương có những
cách thực hành khác nhau, gắn với các quy định cụ thể như hương ước, lệ
làng. Giống như nhiều giá trị văn hóa khác, lễ hội được lưu truyền qua
dân gian là chủ yếu. Khoảng trống về tư liệu lưu trữ liên quan đến lễ
hội không đầy đủ là nguyên nhân khiến những năm vừa qua, dưới tác động
của kinh tế thị trường, không ít lễ hội đã bị sai lạc, biến tướng. Xu
hướng thương mại hóa, coi lễ hội như hàng hóa để kinh doanh, kiếm lợi
nhuận đã khiến cho nhiều lễ hội mất đi “tính thiêng”, mất đi vẻ đẹp văn
hóa vốn có. Thậm chí ở nhiều nơi, lễ hội đã trở thành không gian của
những trò chơi phản cảm, nạn cờ bạc đỏ đen, các dịch vụ “chặt chém” du
khách, tình trạng nói tục chửi bậy, xả rác bừa bãi,... gây bức xúc trong
dư luận. Những bất cập này đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết
trong tổ chức, quản lý lễ hội. Ở một số địa phương, chính quyền còn lúng
túng vì thiếu các căn cứ để thực hiện việc duy trì, bảo tồn lễ hội.
Trước thực trạng này, việc chuẩn hóa các dữ liệu lễ hội bằng hoạt động
số hóa là giải pháp cần thiết, cấp bách đối với công tác quản lý, góp
phần củng cố các giá trị đẹp đẽ trong quá khứ tuyên truyền đến người dân
nâng cao ý thức, trách nhiệm, từ đó tiếp nhận và sáng tạo các giá trị
mới làm giàu thêm cho văn hóa lễ hội.
Một trong những khó khăn
của công tác số hóa lễ hội là việc thống kê, tìm kiếm dữ liệu. Đây là
công việc phức tạp, với khối lượng dữ liệu rất lớn, cần huy động sự tham
gia của toàn xã hội: các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và đặc biệt là
người dân. Mặc dù số lượng lễ hội tại Việt Nam nhiều, loại hình đa dạng
nhưng chưa từng có đề án nào ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản
lý, khai thác dữ liệu. Trong giai đoạn một của đề án “Số hóa dữ liệu lễ
hội tại Việt Nam” ngành văn hóa đã hoàn tất cơ bản các nội dung như:
điều tra, thống kê các loại hình lễ hội tại Việt Nam, ưu tiên số hóa
100% dữ liệu lễ hội truyền thống, đầu tư trang thiết bị, xây dựng phần
mềm quản lý cơ sở dữ liệu và Cổng thông tin về lễ hội Việt Nam. Trong
giai đoạn hai, đề án sẽ tập trung số hóa các loại hình lễ hội còn lại,
chú trọng công tác đào tạo con người cũng như khả năng vận hành cơ sở dữ
liệu. Như vậy, khi hoàn tất đề án “Số hóa dữ liệu lễ hội Việt Nam” công
tác tổ chức, quản lý lễ hội sẽ trở nên khoa học, chuyên nghiệp hơn.
Đánh
giá khách quan thời gian qua, các thông tin cung cấp từ Cổng thông tin
lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã góp phần không nhỏ vào
việc thay đổi công tác quản lý, tổ chức lễ hội tại các địa phương, nâng
cao ý thức của người dân. Nhiều lễ hội đã trang trọng, an toàn, tiết
kiệm, văn minh hơn, vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cộng đồng
vừa góp phần giáo dục truyền thống, lịch sử cho thế hệ trẻ. Hàng nghìn
trang tư liệu, bài viết, hình ảnh, video giới thiệu lễ hội được chuẩn
hóa, trở thành cơ sở dữ liệu để người dân tra cứu, tìm hiểu, khai thác
nhanh chóng và hiệu quả. Những hoạt động phản cảm, kém văn minh trong lễ
hội đã giảm. Cùng với “Bộ tiêu chí về môi trường văn hóa trong lễ hội
truyền thống” được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, nguồn dữ
liệu được số hóa chắc chắn sẽ giúp cho công tác quản lý lễ hội ngày một
chuẩn mực hơn.
Tuy nhiên, những thay đổi tích cực đó mới chỉ là
ban đầu, còn ít, vẫn còn những điểm nghẽn cần được tháo gỡ để tiến tới
việc chuẩn hóa dữ liệu đầy đủ và thuận tiện hơn cho việc tra cứu. Đầu
tiên là nhận thức của các địa phương trong công tác số hóa chưa đồng
đều. Nhiều nơi còn xem nhẹ công tác tìm kiếm tư liệu, sơ sài trong thông
tin lễ hội. Lễ hội là di sản có lịch sử lâu đời và đang phải đối diện
nguy cơ thất truyền dữ liệu. Nếu từng địa phương không chú trọng việc
thu thập thông tin thì số hóa chỉ là hình thức mà thiếu đi những cơ sở
tin cậy phục vụ công tác tổ chức, quản lý, phát huy giá trị đẹp đẽ của
văn hóa mỗi vùng, miền.
Bên cạnh đó công tác tuyên truyền, giới thiệu
nguồn gốc, ý nghĩa, lịch sử văn hóa và các hoạt động văn hóa đặc trưng
của lễ hội đến nhân dân và du khách còn hạn chế. Người dân chưa có nhiều
thông tin về số hóa dữ liệu dẫn đến việc tiếp cận phần mềm số hóa còn
ít, chưa thường xuyên. Các tính năng sử dụng cũng như mức độ thân thiện
của phần mềm dữ liệu theo đánh giá của chuyên gia cần được cải thiện, mở
rộng sự tương tác để nhân dân có thể đóng góp ý kiến, chia sẻ kinh
nghiệm của mình từ góc độ người hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.
Trong
kỷ nguyên số, dữ liệu là một nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia. Chú
trọng công tác số hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả văn
hóa cho thấy Đảng và Nhà nước ta sớm nhận thức được tầm quan trọng của
tài nguyên dữ liệu. Riêng đối với lĩnh vực văn hóa, nhận thức này một
lần nữa cần được quán triệt từ nhà quản lý tới mỗi người dân. Thay đổi
nhận thức là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cho công tác số hóa dữ liệu
văn hóa nói chung và số hóa dữ liệu lễ hội nói riêng được thực hiện
thành công.
Để việc số hóa phục vụ thiết thực, hiệu quả công tác quản
lý, tổ chức lễ hội, vấn đề cốt yếu là giúp người dân tiếp cận được các
dữ liệu, cập nhật kiến thức, hiểu đúng về lịch sử, ý nghĩa của từng lễ
hội, từ đó thay đổi hành vi khi tham gia sinh hoạt lễ hội. Muốn như vậy,
dữ liệu phải đầy đủ, chính xác, khoa học, được thẩm định kỹ càng bởi
các chuyên gia uy tín. Cách bố cục, sắp xếp thông tin phải hài hòa, thân
thiện, dễ hiểu, phần mềm với tính năng dễ sử dụng và tốc độ truy cập
nhanh đáp ứng nhu cầu của người dân. Nói cách khác, muốn làm tốt công
tác số hóa, việc đầu tư cho công nghệ, kỹ thuật, máy móc cũng như nguồn
nhân lực chất lượng cao có vai trò đặc biệt quan trọng. Cần đầu tư nguồn
kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo chuyên gia để vận hành, xử lý,
duy trì hệ thống dữ liệu, cũng như cần một chiến lược đồng bộ, bài bản
thu hút các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động giữ gìn, khai thác
các giá trị của văn hóa. Nếu chúng ta biết thu hút các nguồn lực của
toàn xã hội, công tác số hóa dữ liệu lễ hội sẽ đạt được những kết quả
như mong đợi, góp phần không nhỏ vào phát triển công nghiệp văn hóa.
Trên
thế giới và tại khu vực Đông Nam Á nhiều nước đã thực hiện thành công
số hóa dữ liệu lễ hội. Hiệu quả của công tác này cho thấy vấn đề chuẩn
hóa các dữ liệu lễ hội chính là cách thức hiệu quả để bảo tồn, phục hồi,
phát triển văn hóa bền vững, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự
hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội và văn hóa của các quốc
gia. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ có thể phát huy giá trị khi được chuyển hóa
sống động trong sinh hoạt lễ hội của người dân. Do đó nhất thiết nguồn
tài nguyên này phải được tiếp cận, khai thác bởi các chủ thể lễ hội.
Tiếp cận để hiểu, bảo vệ, giữ gìn những nét đẹp văn hóa của lễ hội, và
thông qua việc tham gia lễ hội, người dân có thể tiếp nhận, sáng tạo các
giá trị mới, nâng tầm di sản văn hóa Việt Nam phù hợp với thời đại mới.
Vì vậy, vấn đề tuyên truyền để người dân, nhất là thế hệ trẻ biết đến
cũng như tiếp cận thường xuyên nguồn dữ liệu số hóa lễ hội cần được đặc
biệt chú trọng, bởi họ chính là những chủ nhân tương lai giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa của lễ hội./.
VŨ QUỲNH TRANG (nhandan.vn)