Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn có tính lịch sử. Chính trị ổn định, nền kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài nhiều năm và bước sang giai đoạn phát triển nhanh, tăng trưởng cao và bền vững.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng phát triển đi lên, sự nghiệp đổi mới ngày càng toàn diện và đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, thể hiện trước hết ở việc đề ra đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng khoa học và sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cao của cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng đến nay, Đảng đã đề ra đường lối, chủ trương, chiến lược trong từng giai đoạn cách mạng như: Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930; đường lối Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; đường lối kháng chiến chống Pháp; đường lối chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đổi mới đất nước để tiến lên CNXH. Những đường lối chủ trương đó luôn đúng đắn đã đưa lại những thắng lợi to lớn, kỳ tích có tính lịch sử.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cách mạng XHCN ở thời kỳ trước đổi mới, trong đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng đã mắc một số sai lầm do chủ quan duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, mặc dù cơ chế này đúng với thời kỳ đất nước còn có chiến tranh, song khi đã kết thúc chiến tranh, cả nước tập trung phát triển kinh tế để tiến lên CNXH thì không còn phù hợp và trở thành vật cản, cần phải đổi mới.
Từ Đại hội VI, Đảng ta đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới phù hợp với thực tiễn đất nước, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới. Trước hết, là chuyển nền kinh tế bao cấp sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (còn gọi là kinh tế thị trường định hướng XHCN); cải tiến công tác phân phối, lưu thông, thực hiện chính sách một giá, bảo đảm cho hàng hóa vận động thông suốt trong cả nước; đổi mới quản lý công nghiệp và nông nghiệp thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu cùng nhiều chính sách kinh tế khác. Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X Đảng ta tiếp tục đề ra những chủ trương, đường lối, chiến lược cách mạng đúng đắn đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá; chủ động hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại tiên tiến, để đến giữa thế kỷ XXI đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực.
Qua 25 năm đổi mới, do có đường lối, chủ trương đúng đắn phù hợp nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; cùng với tinh thần quyết tâm của toàn Đảng toàn dân xây dựng đất nước để thoát khỏi đói nghèo lạc hậu; tình hình kinh tế-xã hội nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống dân sinh được cải thiện một bước quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo thế đi lên và khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng đắn.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi đảng bộ, đảng viên trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc... Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội”(1). “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên CNXH ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”… “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội”(2)… “Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy và cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ… Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng”(3)… “Thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát triển, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài… Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm Quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý”(4)…“Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu”(5).
Trên đây là những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong nội dung nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta đang ở vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức; chủ động mở rộng hội nhập quốc tế để đưa đất nước tiến lên CNXH, từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tình hình kinh tế-xã hội trong nước và tình hình thế giới đã có những biến đổi vừa có lợi, vừa bất lợi cho ta. Để đề ra được đường lối, chủ trương đổi mới phù hợp với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, kinh nghiệm lịch sử cho thấy cần phải coi trọng và quán triệt sâu sắc những yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng của Đảng đề ra phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân, bao gồm lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuỳ theo mục tiêu từng giai đoạn cách mạng mà xác định lợi ích nào giữ vị trí trung tâm, chi phối. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chính trị là lợi ích hàng đầu, không giành được độc lập, tự do thì không có tất cả, và chính quyền phải nằm trong tay nhân dân lao động. Trong công cuộc xây dựng đất nước, đi lên CNXH, vấn đề lợi ích đặt ra khá toàn diện trong đó lợi ích chính trị và lợi ích kinh tế phải được quan tâm hàng đầu, vì xét cho cùng thì chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Các mặt lợi ích khác phải được giải quyết một cách hài hòa với lợi ích chính trị và kinh tế. Xây dựng CNXH là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trong đó mọi người dân không chỉ làm chủ chính trị, kinh tế mà còn làm chủ văn hóa và xã hội ở trình độ ngày càng cao.
Hai là, đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng của Đảng đề ra mang tính toàn cục. Bởi vì không gian hoạt động của xã hội ngày càng tăng lên, nhiều mối liên hệ giữa các yếu tố càng gắn bó chặt chẽ với nhau, tốc độ thay đổi ngày càng nhanh, ảnh hưởng hành động của chủ thể càng lớn, nên phạm vi thực hiện của chiến lược cũng không ngừng mở rộng.
Đặc điểm của chiến lược, trước hết, là tính toàn cục, vì vậy khi đề ra chiến lược cách mạng phải phân biệt toàn cục và bộ phận, chú trọng toàn cục. Vì nắm chắc cái có tính toàn cục thì càng có nhiều khả năng hơn để sử dụng cái có tính bộ phận, vì bộ phận phụ thuộc toàn cục. Cách mạng nước ta hiện nay không thể nằm ngoài xu thế của thời đại, "nếu chỉ thấy cây mà không thấy rừng" sẽ không thể định ra được đường lối, chiến lược, sách lược đúng. Thứ hai, là tính lâu dài. Chiến lược là dự kiến khoa học về sự phát triển trung và dài hạn, điều này đòi hỏi Đảng phải có tầm nhìn lâu dài hướng về tương lai, cần phải chú trọng đến lợi ích lâu dài của nhân dân. Đồng thời phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa trước mắt và lâu dài, cố gắng kết hợp giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài. Thứ ba, là tính tầng lớp của chiến lược. Chiến lược là vấn đề đưa ra có tính toàn cục, được thực hiện bằng những chính sách cụ thể; toàn cục lại là một hệ thống, hệ thống lại có tầng lớp. Tầng lớp khác nhau, có các chiến lược, chính sách tầng lớp khác nhau. Khi giải quyết mối quan hệ giữa các tầng lớp chiến lược hay chính sách cần phải nắm vững nguyên tắc cơ bản là chiến lược, chính sách của tầng lớp trên chi phối chiến lược, chính sách của tầng lớp dưới, chiến lược chính sách vi mô phải phục tùng chiến lược, chính sách vĩ mô. Thứ tư, là tính ổn định. Việc định ra chiến lược phải bảo đảm cho nó được thực thi ổn định và liên tục, tạo được lòng tin với nhân dân, hết sức tránh sự duy ý chí chủ quan làm cho chiến lược, chính sách thay đổi một cách tuỳ tiện. Trong quá trình thực hiện chiến lược và chính sách cần phải phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế khách quan, có những điều chỉnh kịp thời, cần thiết, hợp lý để phù hợp với lòng dân khi những điều kiện khách quan trong cuộc sống đã thay đổi.
Ba là, đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng của đảng đề ra phải bao hàm được quyền lợi của hầu hết các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng là để đem lại quyền lợi hạnh phúc, bình đẳng cho mọi người không phân biệt tầng lớp, sắc tộc, ai ai cũng đều được hưởng những thành quả của cách mạng đem lại. Đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng đề ra cho sự nghiệp cách mạng bao hàm được quyền lợi của đông đảo nhân dân, nhân dân sẽ đồng lòng, đồng sức thực hiện, nhiệm vụ của cách mạng đặt ra nhất định sẽ thành công.
Bốn là, đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng phải có mục tiêu rõ ràng, cụ thể. Tính khả thi của mục tiêu phải được thể hiện ngay trong đường lối, chủ trương và chiến lược, nghĩa là nó phải có căn cứ khoa học. Các biện pháp để thực hiện phải sát với hoàn cảnh thực tế, với năng lực thực hiện của nhân dân.
Năm là, đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng của Đảng đề ra trong từng giai đoạn phải có tính vững chắc. Nghĩa là nó phải được thử thách trong thực tế dù cho môi trường để thực hiện đường lối, chủ trương, chiến lược đó có thuận lợi hay khó khăn thì vẫn có thể đạt kết quả tốt. Chính tính vững chắc đó là niềm tin cổ vũ nhân dân quyết tâm thực hiện bằng được những đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng đề ra cho sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước giầu mạnh. Một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp thiết là Đảng ta phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng luôn đúng đắn với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; đồng thời tổ chức, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chiến lược đó, trong bất kỳ tình thế nào để đưa đất nước từng bước tiến lên CNXH vững chắc, thực hiện thắng lợi, mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.
PGS, TS. CAO DUY HẠ
___________________________
(1), (2), (3), (4), (5) - ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 255, 257, 259, 261, 264.