Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua, Đảng ta, qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về năm bài học này, có không ít câu hỏi đặt ra xoay quanh hai loại vấn đề:
1. Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta.
2. Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng tình hình hiện nay.
Vấn đề thứ nhất: Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta
Đối chiếu với Cương lĩnh 1991, ta thấy phần viết về 5 bài học trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) gần như được giữ nguyên, từ đầu đề và thứ tự các bài học cho đến nội dung của từng bài học. Sự sửa đổi chủ yếu ở cách diễn đạt theo hướng lược bỏ một vài câu diễn giải để các bài học được trình bày súc tích và nổi bật hơn. Có một số chi tiết quan trọng được bổ sung như: trước nói ''Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước'', nay nói: ''Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng” (bài học 2). Hoặc trước nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam'', nay nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''(bài học 5) (những chữ in nghiêng là do tác giả nêu lên để nhấn mạnh).
Sửa đổi và bổ sung, ít như vậy có thể dẫn tới một vài điều băn khoăn. Phải chăng trong quá trình tổng kết Cương lĩnh, Đảng ta đã làm qua loa, không chú trọng đúng mức đến việc đúc rút những bài học kinh nghiệm? Hay vì thực tiễn cách mạng trong mấy thập kỷ qua chưa đủ độ phát triển để rút ra những bài học mới?
Sự thật là, suốt hai mươi năm kể từ sau Cương lĩnh 1991 ra đời, 5 bài học lớn đã là một trong những chủ đề trung tâm của sự học tập, nghiên cứu và giảng dạy chính trị. Đảng ta luôn coi 5 bài học lớn đó là báu vật trong hành trang lãnh đạo của mình, luôn vận dụng chúng vào việc hoạch định đường lối, chủ trương và chính sách, đồng thời thông qua thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Liền trong ba kỳ Đại hội Đảng từ VIII đến X, không Đại hội nào Đảng ta không đề cập tới các bài học lớn và làm phong phú thêm bằng những bài học cụ thể của đổi mới. Quá trình chuẩn bị Đại hội XI và tổng kết Cương lĩnh 1991 cũng diễn ra như vậy. Từ các cuộc thảo luận trong các tiểu ban văn kiện Đại hội cho đến Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện, không ít ý kiến đề nghị bổ sung và phát triển các bài học, nhất là các bài học sống động của đổi mới. Nhưng rồi cũng qua các cuộc thảo luận nghiêm túc và đầy trách nhiệm, Đảng ta đã đi đến nhận thức chung rằng, ở thời kỳ đổi mới, dẫu có thể nêu lên nhiều bài học cụ thể mới, song nếu xuyên suốt quá trình cách mạng 80 năm thì 5 bài học lớn do Cương lĩnh Đại hội VII đúc kết được là cơ bản nhất, bao quát nhất, xứng đáng ở tầm Cương lĩnh. Ở đây, không thể nói sự khẳng định lại các bài học, đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn trong tình hình mới và với nhận thức mới, là không bao hàm ý nghĩa của bổ sung và phát triển.
Có người đặt câu hỏi: năm bài học kinh nghiệm lớn trong Cương lĩnh là 5 bài học chung của cách mạng Việt Nam hay là 5 bài học cho riêng sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng?
Câu trả lời tùy thuộc vào cách tiếp cận giá trị của những bài học ấy.
Nếu nhìn một cách tổng quát, 5 bài học lớn vừa nêu lên tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam lại vừa làm rõ tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Trước hết, cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm, đã trải qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ và tên gọi khác nhau như cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng bản chất và mục tiêu nhất quán của cuộc cách mạng ấy là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong ngôn ngữ thường dùng, có khi ta nói: độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, song thực chất vẫn là một.
Về sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, ngọn cờ của chúng ta là dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, với hai chiến lược cách mạng khác nhau - chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đồng thời giương cao hai ngọn cờ: ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Từ sau ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và có cùng chiến lược chung với hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì ngọn cờ chiến đấu thống nhất của Đảng và nhân dân ta là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là bài học lớn đầu tiên được nêu lên trong Cương lĩnh. Bài học này cho thấy: độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Không nắm vững mà để lung lay ngọn cờ này sẽ là lầm lạc chết người về chính trị.
Thứ hai, cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đối với cuộc cách mạng ấy, nhân dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng phục vụ.
Chính vì vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Thứ ba, cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trong thời đại mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Trong toàn bộ quá trình của cuộc cách mạng ấy, nhất là trong thời kỳ xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước không phải là đấu tranh giai cấp mà là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức.
Chính vì vậy, Đảng ta đặc biệt trân trọng bài học “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết”: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết là sức mạnh, là bài học từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: ''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công''.
Đảng ta cũng trân trọng bài học: kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Và khẳng định: trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Vấn đề thứ hai: Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học lớn ấy tạo thành một giá trị tổng thể, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Đi sâu vào bài học thứ 5, ta thấy sự đánh giá của Đảng ta là khách quan và trung thực: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''. Có nghĩa, không phải bất cứ sự lãnh đạo nào của Đảng cũng đều dẫn tới thắng lợi. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn mới là nhân tố quyết định thắng lợi. Đúng đắn vừa là tiền đề vừa là điều kiện tiên quyết. Còn lãnh đạo sai thì kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại.
Những thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong 80 năm qua chứng minh rằng, sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội dung sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Gắn liền với bài học thứ 5, Cương lĩnh, phần nói về Đảng, cũng viết: để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái...
Xuất phát từ 5 bài học lớn trong Cương lĩnh, đặc biệt là bài học thứ 5, trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, Đảng ta luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' làm thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng kết lý luận-thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó còn là năng lực kiểm tra, giám sát các hoạt động của các tổ chức Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng và toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh , “dĩ hòa vi quý''; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng, và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Đại hội XI (2011) mới đây một lần nữa xác định: ''Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' là nhiệm vụ bao trùm và nội dung chủ yếu nhất về xây dựng Đảng trong hình hiện nay.
Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ''Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng Đại hội cũng chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra, giám sát. Đáng lưu ý là ''tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng ''năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu”.
Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được Đại hội XI nêu lên một cách toàn diện, bao gồm: (1) Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. (2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. (3) Rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. (4) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của đảng và hệ thống chính trị. (5) Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. (6) Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. (7) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, (8) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống của các bài học không chỉ ở chỗ được đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần đổi mới và phát triển./.
Hà Đăng