Thứ Bảy, 28/9/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Bảy, 1/10/2011 16:14'(GMT+7)

Nguồn lực con người – từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một đặc trưng của nền kinh tế thế giới thì vai trò động lực, vị trí trung tâm của con người trong quá trình phát triển đã thực sự được khẳng định. Con người và phát huy nhân tố con người thu hút sự quan tâm, chú ý, được thảo luận rộng rãi trên các diễn đàn trong nước và quốc tế. Trong tiến trình phát triển, cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh: nhân tố con người đóng vai trò quyết định xu hướng vận động của thế giới đương đại. Luôn theo sát sự biến động của thời cuộc, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của nhân tố con người, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(1); nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”(2). Con người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

Xây dựng và chăm lo cho con người ở nước ta trong những năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn bước đầu, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy, sự tác động của cơ chế thị trường đang bộc lộ nhiều bất cập có liên quan đến phát huy nhân tố con người, ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Làm thế nào xây dựng nguồn lực con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống, nhằm tìm kiếm những giải pháp kịp thời, phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.

Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Tuy không có một tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng tư tưởng về con người lại được hiểu thật đa dạng, phong phú, trở thành một tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề con người luôn luôn được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được toả sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy toát lên nội dung quan niệm về con người như sau:

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”(3). Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng mà luôn xuất phát từ hoàn cảnh con người hiện thực cụ thể trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều chiều khác nhau. Đặc biệt ở Hồ Chí Minh, bên cạnh những khái niệm phổ quát như giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, nhân dân lao động, chúng ta đã thấy xuất hiện thêm các khái niệm mới: “Người nô lệ mất nước”, “Người cùng khổ”. Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, đấy là những khái niệm xuất hiện đầy ấn tượng và là một cách tiếp cận riêng của Hồ Chí Minh trong quan niệm về con người. Có thể khẳng định: cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh vẫn là đặt con người trong mối quan hệ với cộng đồng dân tộc. Bởi vì, hơn bất cứ ai, Hồ Chí Minh luôn luôn ở trong lòng nhân dân, mang cùng một truyền thống anh hùng, gắn bó với con người, với nhân dân từ trong khối óc, khát vọng và con tim, trọn vẹn suốt cuộc đời.

Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn quan niệm con người, trong cấu trúc nhân cách, là một hệ thống bao gồm tổng hoà nhiều yếu tố hợp thành như: thể xác và tâm hồn, thể lực và trí tuệ, cái sinh vật và cái xã hội... Con người ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ai cũng có tính tốt tính xấu, có thiện có ác. Vấn đề là làm sao cho phần xấu mất dần đi, phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân; con người ta sinh ra, ai cũng lớn lên, già đi rồi chết; người ta ai cũng muốn sung sướng, mạnh khoẻ... Cách quan niệm như thế cho phép Hồ Chí Minh đạt tới cái nhìn toàn diện về con người; là cơ sở để Người hiểu, cảm thông, lo lắng cho con người. Đây là tư tưởng chủ đạo, bao trùm và xuyên suốt, vừa có ý nghĩa như tiền đề xuất phát đồng thời lại là mục đích trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân tố con người là vốn quý nhất, là động lực vĩ đại, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả, nên phải bắt đầu từ nhân tố con người, vì con người, cho con người và trở về với con người.

1. Con người – nhân tố quý nhất, động lực quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Nhân tố con người là vốn quý nhất, quyết định thắng lợi được Hồ Chí Minh đề cập ở ba cấp độ là: nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, cán bộ; mỗi một con người cụ thể - tức là nhân dân lao động (trừ bọn Việt gian, phản động). Hồ Chí Minh nói: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “cán bộ là gốc của công việc”; “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “chúng ta phải biết quý trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội”...

Tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã được bàn nhiều trong lịch sử mà tiêu biểu nhất là trong Nho giáo. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã thể hiện một sắc thái mới, với tư thế mới. Nói đến “Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến toàn thể nhân dân, nói đến dân chủ. Điều này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Dân vận” (15-10-1949), Người viết:

“Nước ta là nước dân chủ.

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã tới chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4).

Như vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn đặt nhân dân vào địa vị cao nhất, địa vị làm chủ trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội: lợi ích, quyền hạn, công việc, trách nhiệm, chính quyền, đoàn thể (tức là Đảng), quyền hành và lực lượng đều nhằm vào mục tiêu: vì dân, của dân, do dân, ở nơi dân. Nó xác định vai trò dân chủ: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân vừa là chủ nhưng dân vừa thực hiện công việc làm chủ, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là lực lượng, động lực vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn con người, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu khinh dân, xem khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại, có quan hệ mật thiết đến thành hay bại của sự nghiệp cách mạng.

Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người sáng tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng nào", thể hiện qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội và sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần.

Hồ Chí Minh nói: "Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". "Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn phát triển"; quần chúng còn là người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa - tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: "Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng... dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"(5).

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người đóng vai trò là động lực to lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng “dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả” cho thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của mọi nguồn lực. Vai trò ấy được Người kế thừa từ tư tưởng: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” để rồi khái quát ở tầm chân ly:á “Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”(6).

Trong quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa động lực và mục tiêu, Hồ Chí Minh chú ý đến mức độ mục tiêu đạt được trong điều kiện, cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Mà mục tiêu tổng quát là: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Mục tiêu đó biểu hiện thành các mục tiêu cụ thể:

Giai đoạn trước khi giành được chính quyền thì mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc. Người nói: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Sau khi giành được chính quyền, thì mục tiêu: Ăn, mặc, ở, học hành lại được ưu tiên hơn. Ngày 10-1-1946, tại cuộc họp của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành".

Sau năm 1954, miền Bắc đi vào khôi phục nền kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành tốt việc sửa sai, từng bước phát triển kinh tế tập thể. Giai đoạn này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào việc phải "nâng cao dần mức sống của nhân dân... đồng thời giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân". Bước sang năm 1958, kết thúc thời kỳ khôi phục kinh tế, mở đầu thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960), Hồ Chí Minh nói nhiều về chủ nghĩa xã hội những mục tiêu cơ bản nhằm giải phóng con người. Trong bối cảnh tập trung mọi nhân tài, vật lực cho phát triển kinh tế và tiến hành đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến con người. Tại Hội nghị của Bộ Chính trị, ngày 30-7-1962, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng, để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả là do con người... Làm cho quần chúng hiểu chủ nghĩa xã hội đúng hơn.

Vào thời điểm đó, cách đặt vấn đề như vậy cho thấy chiều sâu mục tiêu con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt, thì mục tiêu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" lại ở bậc cao của thang giá trị dân tộc. Mục tiêu con người gắn chặt với chủ quyền dân tộc. Tại kỳ họp Quốc hội khóa III, ngày 10-4-1965, Hồ Chí Minh kêu gọi: Lúc này, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Ngay trong thời điểm lịch sử vô cùng khó khăn đó, phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 12, khóa III Ban Chấp hành TW Đảng, tháng 12-1965, Hồ Chí Minh lưu ý: "Chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của các gia đình thương binh, liệt sỹ, đời sống của nhân dân ở các vùng bị bắn phá nhiều... những gia đình thu nhập thấp, đông con".

Nếu tờ báo Người cùng khổ, số 1, nêu mục tiêu là giải phóng con người thì sau này bản Di chúc của Người cũng nêu công việc đầu tiên là đối với con người. Điều đó cho thấy cái "bất biến" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất cả vì con người để ứng với cái "vạn biến" của lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh nói: "Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức, bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tùy theo điều kiện thiết thực của mình mà tiến dần".

Mục tiêu giải phóng con người về mặt chính trị-xã hội cũng được Hồ Chí Minh chú ý, nhấn mạnh. Giá trị và chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở chỗ đã nhìn nhận và đánh giá vai trò của văn hóa-đạo đức-truyền thống trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển con người.

Xét ở một khía cạnh nào đó, văn hóa-đạo đức-truyền thống là những yếu tố cấu thành đời sống tinh thần, tâm linh con người. Con người không chỉ tồn tại bằng đời sống vật chất, mà còn tồn tại cả trong đời sống tinh thần. Con người không chỉ chịu sự chi phối của các quy luật vật chất khách quan, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật tình cảm, các chương trình kế thừa về văn hóa-đạo đức-truyền thống. Giải phóng con người về mặt chính trị-xã hội là điều kiện tiên quyết, nhưng mới chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Con người tồn tại hài hòa trong môi trường đã được nhân tạo hóa dưới dạng: đạo đức, pháp luật, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... gọi chung là văn hóa-đạo đức-truyền thống. Bản chất của nó được thể hiện trong các giá trị vật chất, tinh thần, tập trung nhất ở nhân cách và lối sống con người.

Lý tưởng mà suốt đời Hồ Chí Minh theo đuổi là mưu cầu độc lập cho dân tộc, người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Một xã hội mới theo Hồ Chí Minh quan niệm là một xã hội trong đó con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Con người có sự phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, có những quan hệ với tự nhiên, xã hội... trong sự biểu hiện cao nhất về văn hóa-đạo đức-truyền thống. Do đó, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một xã hội lý tưởng, không chỉ ở thể chế chính trị dân chủ, cơ cấu kinh tế, kỹ thuật hiện đại, mà còn là một cơ cấu có giá trị văn hóa-đạo đức nhân bản. Sự phát triển kinh tế nếu không chú ý đến văn hóa-đạo đức thì không đạt tới sự phát triển bền vững. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc nhấn mạnh: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa, muốn có những con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tức là con người có thể được phát triển sớm hơn so với sự phát triển kinh tế-xã hội. Xây dựng con người không chỉ bồi dưỡng về chính trị, văn hóa, chuyên môn kỹ thuật mà đặc biệt là đạo đức. Sự tiến bộ xã hội, sự tiến bộ của con người có thể dựa vào tiêu chí tiến bộ về văn hóa-đạo đức, coi như trình độ người trong phát triển. Ưu tiên văn hóa-đạo đức trong phát triển xã hội "là sự phát triển rút ngắn", nhằm đạt tới mục tiêu con người, trong đó "phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Con đường phát triển rút ngắn, theo Hồ Chí Minh, không chỉ là "cơ cấu lại" hệ thống các chuẩn mực văn hóa-đạo đức khách quan, mà ở chỗ, nó hướng vào sự tự nhận thức, tự đánh giá, tự hoàn thiện về lối sống, nhân cách của mỗi người. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, cải tạo cái cá nhân để từ đó cải tạo xã hội đồng thời với quá trình cải tạo xã hội để tạo điều kiện cho cải tạo cá nhân.

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam theo tinh thần cách mạng và khoa học. Vấn đề con người gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa; mục tiêu giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh kết luận "phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân"; phải "dựa vào: lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân" và "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".

2. Con người là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực chính là đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ, tạo việc làm, an sinh xã hội... Đầu tư cho con người chính là nhằm phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính năng động và sức sáng tạo của con người; phát huy bản sắc nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc để hun đúc thành bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động. Đó chính là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh, nếu được phát huy và sử dụng có hiệu quả sẽ là động lực, nguồn sức mạnh để phục vụ cho chính con người và xã hội.

Với tinh thần “phát huy nhân tố con người”, “làm cho sản xuất bung ra”, “giải phóng mọi năng lực sản xuất” trong nhân dân... được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (12-1986), đất nước đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Nước ta từ thiếu đói đã tiến đến hoàn thành mục tiêu “ăn no, mặc ấm” và vươn tới những mục tiêu cao hơn.

Lại một lần nữa, thực tế cho chúng ta thấy, khi nào chúng ta biết tôn trọng, yêu thương, tin tưởng, dựa vào nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với lòng người, quan tâm tới quyền lợi của nhân dân, tạo ra động lực cho người lao động... thì lúc đó chúng ta phát huy được nhân tố con người, khai thác và huy động được năng lực, khả năng của mỗi cá nhân và toàn dân tộc vào tiến trình cách mạng.

Bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho không ít cá nhân, tập thể, doanh nghiệp bị chìm đắm vào những lợi ích cá nhân, vì đồng tiền, vì lợi ích mà đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của quốc gia dân tộc.

Trong sự hỗn độn giữa thiện và ác, giữa đúng và sai, giữa tích cực và hạn chế, ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh như mặt trời soi sáng cho con đường chúng ta đi. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nguồn lực con người nói riêng vẫn nguyên giá trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, những lời dạy về phát huy sức mạnh của phẩm chất và năng lực, những chỉ dẫn về cách dùng người, sử dụng cán bộ, những giải pháp để phát huy được nhân tố con người thực sự xứng tầm “là cái cẩm nang thần kỳ”, “bàn chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.

Mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh giữ vững, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó trước hết là cuộc cách mạng của con người, vì con người và do con người. Bởi, khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị-xã hội và đạo đức, tình cảm trong sáng.

Trong sự nghiệp cách mạng từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trên thực tế, Đảng ta đã luôn luôn cố gắng thực hiện mục tiêu đó. Sự nghiệp chăm lo cho hạnh phúc con người tuy chưa có nhiều thành công như mong muốn, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Lời dạy của Bác – “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” và “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” – đã trở thành tư tưởng xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định mục tiêu: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Và trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011), Đảng ta đặt mục tiêu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề”(7)./.

PGS, TS. PHẠM NGỌC ANH

--------------

(1), (2), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.41, 76, 216-217.

(3), (4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.644, 698, 295, 293.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất