Thứ Sáu, 22/11/2024
Văn hóa
Thứ Tư, 22/7/2020 10:9'(GMT+7)

Ngọn đèn soi rọi nền văn hóa Việt Nam hiện đại

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

“KHOA HỌC - DÂN TỘC - ĐẠI CHÚNG” LÀ MỤC TIÊU CỐT LÕI ĐỂ XÂY DỰNG NỀN VĂN NGHỆ CÁCH MẠNG

Năm 1941 có một ý nghĩa đặc biệt với cách mạng Việt Nam. Đó là năm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Đó cũng là thời điểm thế chiến lần thứ hai bước vào giai đoạn quyết liệt. Cả châu Âu căng mình ra chống trả phát xít Đức. Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, cai trị... Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (họp từ ngày 10 đến 19/5/1941 tại Pác Bó, Cao Bằng) đã ra nhiều quyết sách quan trọng. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Mặt trận Việt Minh được thành lập, tập hợp mọi tầng lớp nhân dan tham gia cuộc đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc…

Để chống lại chính sách văn hóa phản động của phát xít Pháp - Nhật và tay sai của chúng, chống lại trào lưu lãng mạn có khuynh hướng cải lương, bi quan, bế tắc. Đồng thời để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, năm 1943, Đảng ta đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo. Có thể xem đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng về chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Văn hóa Việt Nam có bề dầy truyền thống cả ngàn năm, “Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...” (Nguyễn Trãi). Truyền thống văn hóa ấy chính là triết lý “nhân nghĩa” của người Việt Nam, là chủ nghĩa yêu nước, là sự đoàn kết đồng lòng triệu người như một mỗi khi đất nước bị xâm lăng, thiên tai, dịch bệnh...

Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 góp phần quan trọng vào xây dựng nền tảng lý luận cho văn hóa mới Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phương châm chỉ đạo mang tính chiến lược: Khoa học - Dân tộc - Đại chúng. Năm 1943, dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, phong trào cách mạng ở nước ta lên cao. Đồng chí Trường Chinh, với bút danh Sóng Hồng đã gặp gỡ một số văn nghệ sĩ danh tiếng thời đó như Văn Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Nguyên Hồng… trực tiếp trao đổi, truyền đạt nội dung bản Đề cương và phương hướng hoạt động, thành lập Hội Văn hóa cứu quốc...

Có thể nói, định hướng chủ đạo của Đảng đối với văn học nghệ thuật ở thời kỳ này là mục tiêu “cứu quốc”. “Nay ở trong thơ nên có thép / Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (Hồ Chí Minh). Chất “thép” trong thơ cũng như phẩm chất “nhà thơ - chiến sĩ” là một đòi hỏi cần thiết cho một nền văn nghệ mới. Nói cách khác, văn học nghệ thuật cách mạng phải góp phần vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ánh sáng của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 đã góp phần quan trọng hình thành nên dòng văn nghệ cách mạng mà Tố Hữu, Văn Cao... là những ngọn cờ tiêu biểu. Dòng chảy văn nghệ ấy cuộn chảy trong cơn sóng lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã tạo nên dấu mốc lịch sử của dân tộc, mở đầu cho nền văn nghệ cách mạng chảy mãi đến hôm nay.

Nền văn hóa mới Việt Nam được hình thành trên nền tảng các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại - cả phương Đông, phương Tây cùng các nền văn minh khác - để tạo ra bản sắc riêng. Nhiều nghị quyết của Đảng và Chính phủ đã khẳng định trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước phải coi trọng cả chính trị, kinh tế và văn hóa. Lịch sử đấu tranh dựng nước của dân tộc Việt Nam chỉ ra rằng, dù có những giai đoạn rơi vào cảnh nước mất nhà tan, nhưng từ trong sâu thẳm, văn hóa Việt Nam vẫn không bị huỷ diệt. Văn hóa trở thành sức mạnh nội tại không thể bị công phá, tiêu biến, đồng hóa...

Nền văn hóa mới Việt Nam được hình thành trên nền tảng các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại - cả phương Đông, phương Tây cùng các nền văn minh khác - để tạo ra bản sắc riêng.

Sức sống và giá trị lan tỏa rộng rãi của Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 cũng được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và đạo lý truyền thống của con người Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với những khó khăn phải vượt qua của một chính quyền non trẻ là muôn vàn “gian nan thử thách” đòi hỏi phải có sự chung sức chung lòng của cả dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc lại tiếp tục bước vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành độc lập, thống nhất non sông. Tiếp đó là các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới... Dưới ngọn cờ tập hợp của Đảng, cùng với mọi thành phần, tầng lớp, đội ngũ văn nghệ sĩ, báo chí đã đoàn kết, góp sức, nhân lên sức mạnh của Đảng và nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung. Ngòi bút và lao động trí tuệ sáng tạo của người nghệ sĩ đã trở thành vũ khí sắc bén chống quân thù. Nhiều người trực tiếp cầm súng đánh giặc và hy sinh trong tư thế người chiến sĩ. Hàng vạn tác phẩm văn học, nghệ thuật ra đời trong những thời kỳ khói lửa đã phản ánh sinh động tinh thần kiên cường, bất khuất, quật khởi; thể hiện ý chí và bản lĩnh của đất nước và con người Việt nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 đã tạo những “tiền đề” quan trọng hình thành nên chủ trương, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng gắn với mỗi giai đoạn cách mạng; là nền tảng cơ bản để tập hợp đội ngũ, thúc đẩy, động viên tinh thần, niềm tin của lực lượng văn nghệ sĩ, báo chí...

“Khoa học - Dân tộc - Đại chúng” là những phạm trù quan trọng, có mối quan hệ máu thịt trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn nghệ mới, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nền văn nghệ mới đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ và tác phẩm của họ phải gắn bó với vận mệnh dân tộc, không thoát ly những “cung bậc đời sống” của nhân dân; phản ánh chân thật, sinh động, hào hùng hình ảnh đất nước và con người Việt Nam; khẳng định các giá trị nhân văn - nhân ái - cao đẹp; chống lại cái xấu, cái ác và những điều phi nhân tính...

XÂY DỰNG VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP 

Năm 1998, Hội nghị Trung ương V khóa VIII cho ra đời Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. 16 năm sau, năm 2014, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI ra Nghị quyết 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Có thể nói, sau hơn một nửa thế kỷ, nội dung cơ bản của hai nghị quyết nêu trên vẫn là sự tiếp nối của Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943. Tiếp nối để phát triển cho phù hợp với bối cảnh, tình hình mới của đất nước.

Giai đoạn mới - giai đoạn đất nước thống nhất, hòa bình và hội nhập phát triển... đặt ra những nhiệm vụ chiến lược mới trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, diện mạo của đất nước đã có những đổi thay to lớn, toàn diện; cuộc sống của người dân từng bước được nâng cao; biên cương, chủ quyền Tổ quốc được giữ vững... Song, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào, công cuộc đổi mới và hội nhập sâu rộng cũng làm nảy sinh và đặt ra cho xã hội nhiều vấn đề phức tạp, khó lường, trong đó có những nguy cơ thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng. Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang làm cho tình trạng tham nhũng, tệ nạn xã hội trở nên gay gắt và phức tạp. Điều đáng sợ nhất là sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sẵn sàng chà đạp lên lý tưởng của Đảng và niềm tin của nhân dân. Bài học về các vụ án tham nhũng những năm gần đây là một giá đắt cho công tác tư tưởng, công tác xây dựng tổ chức Đảng…

Để giữ vững sự nghiệp cách mạng và vai lãnh đạo của Đảng, giữ vững niềm tin của nhân dân vào chế độ; để những giá trị tích cực, tiến bộ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc luôn là “dòng chảy chủ đạo” thúc đẩy sự nghiệp cách mạng, nâng bước cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát bền vững của đất nước… văn hóa, văn học nghệ thuật không thể thờ ơ, đứng ngoài cuộc.

Thực tế, những năm qua đã có không ít tác phẩm văn chương, điện ảnh, sân khấu... tích cực tham gia, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng; đề cập, phơi bầy những mặt trái trong đời sống xã hội. Bên cạnh việc phản ánh nhân tố mới, con người mới, đã phân tích và chỉ ra những mâu thuẫn mới nảy sinh trong bối cảnh, tình hình mới; phê phán, lên án cái xấu, cái ác; vạch trần những thủ đoạn tinh vi, biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên - kể cả người có chức, có quyền...

Mục tiêu của văn hóa, văn nghệ trong “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” về căn bản vẫn là xây dựng cho được những con người giàu lòng yêu nước, chung sức đồng lòng vì sự nghiệp cách mạng toàn dân dưới ngọn cờ của Đảng, hoàn thành trách nhiệm công dân với xã hội... Đó cũng là mục tiêu xây dựng một môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh vừa đáp ứng với thời đại mới, vừa giữ được các giá trị truyền thống tốt đẹp, phù hợp với thời đại.

Lịch sử cho thấy, chưa bao giờ chúng ta được rộng mở tiếp cận với những giá trị tiến bộ của nhân loại như hiện nay, đặc biệt là những tiến bộ về khoa học - công nghệ, công nghệ số... Nhưng, cũng chưa bao giờ chúng ta phải đối mặt với những thách thức và nguy cơ tiềm ẩn như hiện nay.

Dù còn những khó khăn cả ở hiện tại và tương lai, dù tình hình thế giới không ngừng có những thay đổi mau lẹ, phức tạp, dù con đường của chúng ta đã, đang và sẽ đi chưa hết những “gập ghềnh”, nhưng, với nền tảng văn hóa và truyền thống được hun đúc trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, với tinh thần đoàn kết và những giá trị tốt đẹp được nhen lên mỗi khi gặp khó khăn, chắc chắn dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua khó khăn, đạt được thành công mới trong đổi mới, hội nhập, phát triển bền vững đất nước. Việc ứng phó tích cực của cả hệ thống chính trị cùng những nghĩa cử nhân văn của dân tộc ta trong đại dịch Covid-19, đã thêm một lần nữa khẳng định bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam, khơi dậy những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam từ ngàn đời nay... Trong những “chất xúc tác” nhân lên bản lĩnh, bản sắc ấy, có vai trò của công tác tư tưởng, văn hóa - văn nghệ.

PHÁT HUY VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA MẶT TRẬN VĂN HÓA, VĂN NGHỆ TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA CỦA ĐẢNG

Với 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trải dài từ Bắc vào Nam, tính đa dạng, phong phú trong bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, vùng miền luôn tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, “cái riêng” trong bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, tộc người không tách rời mà luôn gắn kết với “cái chung” - lợi ích chung của “đại gia đình các dân tộc Việt Nam”, nhất là mỗi khi đất nước có ngoại xâm hoặc thiên tai, địch họa.

Suốt nhiều chục năm qua, dù có những giai đoạn kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhưng về căn bản, các thiết chế văn hóa của chúng ta đã được định hình và hoạt động ổn định. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa được đi vào cuộc sống, tới với mọi người dân. Văn hóa cơ sở ở các địa bàn dân cư vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng biên giới được củng cố, tạo điều kiện phát huy, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân... Song, vẫn còn đó những “lỗ hổng” và khiếm khuyết liên quan đến văn hóa chưa được “lấp đầy”; những bất cập cả về chính sách và thực tiễn đời sống văn hóa, nhất là văn hóa cơ sở chưa được khắc phục; những nền tảng và giá trị căn bản trong văn hóa truyền thống đang bị mai một vì sự thờ ơ của các cấp có trách nhiệm, nhất là ở địa phương... Khuyết điểm ấy trước hết thuộc về nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền khi chưa coi trọng vai trò của văn hóa; chưa gắn văn hóa với chính trị, kinh tế; chưa thực sự coi văn hóa là một mũi xung kích của công tác tư tưởng để chuyển tải đường lối của Đảng đến người dân... Trách nhiệm của công tác tư tưởng, của lực lượng làm văn hóa, văn nghệ không chỉ là phát huy những giá trị văn hóa, mà còn phải “góp tiếng nói tích cực” để khắc phục những bất cập, yếu kém trong quản lý, thực thi chính sách văn hóa...

Thực tiễn chỉ ra rằng, công tác tư tưởng - văn hóa nói chung, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ nói riêng đã cùng với các “binh chủng” khác đem chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về văn hóa đến với mọi tầng lớp nhân dân; “điều chỉnh” và thúc đẩy sự vào cuộc có trách nhiệm của hệ thống chính trị cũng như thái độ tích cực của người dân - nhất là cộng đồng và cư dân bản địa... Nhờ đó, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể (cả cũ và mới) của nước ta đã phát huy tác dụng gắn kết với du lịch mang lại nguồn kinh tế lớn, quảng bá rộng rãi ra thế giới. Nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại được giao lưu, giới thiệu tại Việt Nam...

Văn học, nghệ thuật là một bộ phận tinh tế, cốt lõi của văn hóa. Những văn nghệ sĩ thực sự tài năng là nguồn nhân lực quý hiếm của đất nước. Tập hợp đội ngũ văn nghệ sĩ thành một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng từ lâu đã được Đảng ta quan tâm. Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng luôn xác định văn nghệ là vũ khí sắc bén trong tuyên truyền cách mạng. “Vũ khí” đó càng “sắc bén” khi tình cảm, xúc cảm trong tuyên truyền được coi trọng và phát huy cao độ, như Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói “văn nghệ đến với nhân dân bằng trái tim, thuyết phục quần chúng bằng trái tim”...

Văn nghệ đến với nhân dân bằng trái tim, thuyết phục quần chúng bằng trái tim”.

(Tổng Bí thư Lê Duẩn)

Có người nói, đôi khi một bài thơ có sức mạnh bằng cả một sư đoàn. Điều ấy không phải là không có lý, khi có những tác phẩm văn học, âm nhạc, điện ảnh của chúng ta trong thời kỳ kháng chiến đã góp phần “thắp lửa niềm tin”, tạo nên sức mạnh tinh thần vô biên, hiệu triệu - thúc giục hàng triệu người lính ra trận đánh giặc.

Hiện nay, cả nước có 74 tổ chức các hội văn học - nghệ thuật với hơn 42 vạn văn nghệ sĩ chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, được tập hợp dưới “mái nhà chung” Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được Nhà nước hỗ trợ kinh phí trong hoạt động nghiệp vụ, các tổ chức Hội luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng chuyên môn gắn với nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương; xác định nhiệm vụ hàng đầu của văn nghệ sĩ là sáng tạo những tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống, con người Việt Nam cả trong quá khứ và hiện tại... Cùng với những chủ trương, định hướng trong các nghị quyết của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam giai đoạn mới, những giá trị xuyên suốt của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 vẫn là những tiêu chí được đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà hướng tới.

Theo đó, tự do trong sáng tạo nghệ thuật là một đòi hỏi tự thân của mỗi văn nghệ sĩ. Song, tự do ấy phải được gắn liền với trách nhiệm công dân của mỗi tác giả khi sáng tạo tác phẩm, “viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì”. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập hiện nay, các tác phẩm văn nghệ cần hướng đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng phát triển bền vững xã hội. Ngoài việc khẳng định nhân tố mới, phát hiện vấn đề mới, người nghệ sĩ cần phát huy mạnh mẽ vai trò “chiến sĩ tư tưởng” - không ngừng nâng cao dũng khí trong vạch trần, lên án cái xấu, cái ác, đặc biệt là tinh thần xung kích trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng mà toàn Đảng, toàn dân đang quyết tâm, kiên trì thực hiện.

Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giai đoạn hiện nay - hoà bình, đổi mới, hội nhập, phát triển - các thế lực thù địch, chống phá cách mạng vẫn chưa bao giờ từ bỏ giã tâm khiêu khích, phá hoại đất nước ta; xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; phá vỡ và làm đảo lộn các giá trị truyền thống, trong đó có những giá trị mà cả dân tộc phải trả bằng máu mới có được... Do đó, cùng với trách nhiệm củng cố, phát triển nền văn hóa dân tộc và bản lĩnh, ý chí con người Việt Nam, mỗi văn nghệ sĩ thông qua tác phẩm của mình, phải kiên định và phát huy tinh thần tiến công trong cuộc chiến chống “diễn biến hoà bình”, chống suy thóai “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”…

Có những thời điểm, nhiệm vụ tuyên truyền cần phải được đặt lên trên “quan điểm nghệ thuật”, vì lợi ích tối thượng của quốc gia - dân tộc. Cùng với đó, “đi và viết”, bám sát cuộc sống, đến với những mũi nhọn của cuộc sống phải là đòi hỏi, trách nhiệm thường xuyên, cao cả của người nghệ sĩ…

Nhìn lại chặng đường gần 80 năm ra đời, những giá trị cốt lõi của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 không chỉ tiếp tục là cơ sở để Đảng ta ngày càng hoàn thiện, nâng cao đường lối văn hóa, văn nghệ phù hợp với giai đoạn cách mạng mới, mà còn là “căn cốt” để xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ thực sự là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Nhà văn Đỗ Kim Cuông
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam
Phản hồi

Các tin khác

Kiến tạo thể loại để phục dựng lịch sử trong biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh (3/2/1930 - 3/2/2020) và 45 năm chiến thắng lịch sử (30/4/1975), đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tái bản lần thứ 5 có bổ sung cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh. Những tình tiết, sự việc mới rất có giá trị vừa được giải mật bổ sung nhằm hoàn thiện thêm những sự kiện lịch sử quan trọng trong cuốn sách và thêm 10 tài liệu nguyên bản được xem là tuyệt mật của phía chính quyền Sài Gòn trong thời khắc sụp đổ cuối cùng của chiến tranh lần đầu được công bố trong phần Phụ lục cuối sách, theo như Lời Nhà xuất bản và bộc bạch của tác giả, đã khiến tôi một lần nữa tìm đọc cuốn sách mới tái bản này. Quả thật, hai nội dung chính bổ sung trong lần tái bản này đã nâng tầm Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 xét về cả độ tin cậy và phong phú của các tài liệu, văn bản được viện dẫn khiến tác phẩm xứng đáng là một biên niên sử sống động, có giá trị cả về lịch sử - báo chí - văn chương và hấp dẫn người đọc về những giờ phút sụp đổ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn và chính thể Việt Nam Cộng hoà.

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất