Hiệp định EVFTA khi được thông qua sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu tăng thêm gần 45% vào năm 2030; giúp GDP của Việt Nam tăng từ 7,07-7,72% trong giai đoạn 2029-2033.
Theo ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ, xét về tổng thể, Hiệp định EVFTA khi được thông qua sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu tăng thêm gần 45% vào năm 2030; giúp GDP của Việt Nam tăng từ 7,07-7,72% trong giai đoạn 2029-2033.
Thông tin này được đưa ra tại Hội thảo “Nhận diện cơ hội kinh doanh trong bối cảnh Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) sớm được thông qua" do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Chi nhánh Cần Thơ (VCCI Cần Thơ) và Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam (VIAC) phối hợp tổ chức.
Hội thảo nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư khu vực Đồng bằng sông Cửu Long về cơ hội và thách thức từ Hiệp định EVFTA; triển vọng thu hút đầu tư từ khu vực Liên minh châu Âu (EU) cũng như đưa ra giải pháp, khuyến cáo cho các doanh nghiệp xuất khẩu; đồng thời thúc đẩy phát triển thương mại và đầu tư giữa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long-EU nói riêng và Việt Nam-EU nói chung trong thời gian tới.
Theo ông Nguyễn Phương Lam, EVFTA được coi là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, phù hợp với các định chế của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có tính đến độ chênh của trình độ phát triển giữa hai bên.
Gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu sẽ được xóa bỏ thuế sau một lộ trình ngắn và đây là mức cam kết cao nhất mà đối tác EU dành cho Việt Nam.
Các ngành sản xuất hàng hóa, thực phẩm chế biến (đặc biệt là thủy sản), gạo, rau củ, trái cây, dịch vụ hàng không-viễn thông-vận tải biển đều có cơ hội tăng sản lượng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, các nhóm ngành dệt may, chế biến thực phẩm, ôtô còn có cơ hội tham gia chuỗi giá trị toàn cầu do được loại bỏ thuế quan, giảm hàng rào phi thuế quan; cải thiện môi trường kinh doanh, thuận lợi thương mại; tăng cường công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn, giúp Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn châu Âu dễ dàng hơn và thúc đẩy đầu tư từ châu Âu vào Việt Nam và khu vực ASEAN, ASEAN+...
Với EVFTA, Việt Nam còn có cơ hội tiếp cận với những máy móc, thiết bị, công nghệ và kỹ thuật cao từ các nước EU.
Các ngành mũi nhọn của Việt Nam như gạo, càphê, mật ong, chăn nuôi, hoa quả, thủy sản... đều hưởng ưu đãi ngay từ những năm đầu tiên... Các ngành dệt may, giày da, đồ gỗ, tin học, ôtô, hóa dầu… cũng được hưởng nhiều ưu đãi theo lộ trình.
Về nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu với chất lượng tốt và ổn định với mức giá hợp lý hơn từ EU.
Đồng thời, hàng hóa, dịch vụ từ EU nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tạo ra sức ép để doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh cũng như nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) Trần Hữu Huỳnh cho biết bên cạnh những cơ hội, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức khi Hiệp định EVFTA được thông qua, trong đó có thách thức từ các yêu cầu của EU về xuất xứ nguyên liệu.
Theo ông, thông thường hàng hóa muốn được hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA thì nguyên liệu phải đáp ứng được một tỷ lệ về hàm lượng nội khối nhất định (nguyên liệu có xuất xứ tại EU hoặc Việt Nam).
Ngoài ra, EU còn có nhiều rào cản về kỹ thuật thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật đối với các sản phẩm nhập khẩu.
Ông Trần Hữu Huỳnh nhấn mạnh EU là một thị trường khó tính, khách hàng luôn đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Các yêu cầu bắt buộc về vệ sinh an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường... của EU rất khắt khe và không dễ đáp ứng. Vì vậy, dù có được hưởng lợi về thuế quan thì hàng hóa của Việt Nam cũng phải hoàn thiện về chất lượng để có thể vượt qua được các rào cản này.
Ông Florian J Beranek, chuyên viên Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), thành viên Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EUROCHARM) cho biết mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa, dịch vụ từ EU đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khó khăn hơn ngay tại thị trường nội địa.
Trên thực tế, đây là một thách thức rất lớn bởi các doanh nghiệp EU có lợi thế hơn hẳn các doanh nghiệp Việt Nam về năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm thị trường cũng như khả năng tận dụng các FTA.
Đặc biệt, qua khảo sát, UNIDO nhận thấy không ít doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chỉ chú trọng thị trường trong nước, chưa thật sự quan tâm đúng mức đến việc đầu tư để xuất khẩu sản phẩm của mình ra thế giới. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn cho rằng sản phẩm châu Âu có giá thành đắt đỏ nên sẽ không phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp đến sản phẩm của mình.
Theo ông Florian J Beranek, đây là quan niệm hết sức sai lầm vì trên thực tế, hàng rào thuế quan được giảm trừ, các doanh nghiệp châu Âu hoàn toàn có khả năng tạo ra những sản phẩm chất lượng cao với giá cả phải chăng, đặc biệt là thịt lợn và gà. Nếu không có đối sách cạnh tranh, doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị “thua” ngay trên chính "sân nhà."
Tuy nhiên, ông cũng cho biết cam kết mở cửa của Việt Nam có lộ trình, đặc biệt đối với những nhóm sản phẩm nhạy cảm, do đó EVFTA cũng là cơ hội, sức ép hợp lý để các doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh, thay đổi phương thức kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Về công tác chuẩn bị cho việc Hiệp định EVFTA được thông qua, Chủ tịch VIAC Trần Hữu Huỳnh cho biết thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng những cam kết và thể hiện quyết tâm của Việt Nam khi chấp nhận các "luật chơi" quốc tế, nhất là thị trường các nước phát triển như EU.
Bên cạnh đó, để đón nhận thời cơ, vượt qua thách thức đối với nền kinh tế, từ cơ quan hoạch định chiến lược, chính sách của Chính phủ đến các cơ quan quản lý Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và các doanh nhân cần sớm tìm ra và khắc phục kịp thời các yếu kém, bất cập để thực hiện cam kết của mình trong các FTA với các đối tác khác nhau theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
Đặc biệt là sớm hoàn thiện thể chế và nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ./.
Theo TTXVN/Vietnam+