Qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cộng đồng các dân tộc
Việt Nam đã hình thành, phát triển và tạo dựng nên một đất nước thống
nhất gồm 54 dân tộc. Các dân tộc thiểu số Việt Nam phân bố từ miền bắc
đến miền nam, phần lớn sinh sống ở miền núi, cư trú xen kẽ, không có
dân tộc nào hoàn toàn tách riêng theo vùng địa lý. Ðiều này đã làm cho
sự hòa hợp trở thành đặc điểm lịch sử, văn hóa; tạo điều kiện thuận lợi
để các dân tộc, dù đa số hay thiểu số, hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ nhau. Từ ngày đất nước độc lập, thống nhất, nhất là
trong thời kỳ Ðổi mới, đồng bào các dân tộc thiểu số không những đã được
quan tâm phát triển đời sống vật chất, tinh thần mà từng bước được
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, cơ sở hạ tầng nơi cư trú được xây
dựng,. Ðiều này có được là do Ðảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định
quan điểm cơ bản đối với công tác dân tộc là bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển, như Ðiều 5 Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua khẳng định: "1. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành
vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước".
Chính vì thế, dù người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng
số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số hiện chiếm 15,6%, đại
biểu người dân tộc thiểu số tham gia hội đồng nhân dân cấp tỉnh chiếm tỷ
lệ 18%, cấp huyện là 20,1%, cấp xã là 22,46%. Thí dụ điển hình cho sự
quan tâm của Ðảng và Nhà nước là vấn đề chữ viết. Ðể thực hiện Ðiều 7
Luật Giáo dục: "Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được
học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng
tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Việc dạy của học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực
hiện theo quy định của Chính phủ", năm 2010 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 82/2010/CP quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân
tộc thiểu số. Năm 2012 có 32 tỉnh tổ chức dạy và học tiếng dân tộc
thiểu số; giáo trình biên soạn bằng 12 thứ tiếng. Ðến hết năm 2012, tại
các tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, đã có 2.629 trường, lớp học chữ
dân tộc với 136.600 học sinh. Hiện tại Việt Nam đang thí điểm thực hiện
giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ do Bộ Giáo dục và Ðào tạo hợp
tác với UNICEF nghiên cứu thực nghiệm tại ba tỉnh Lào Cai, Trà Vinh,
Gia Lai bước đầu đạt kết quả tốt.
Các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí nhân
danh vấn đề nhân quyền can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, bịa
đặt vấn đề dân tộc nhằm xuyên tạc chính sách đúng đắn của Nhà nước
Việt Nam. Họ lập ra các đài phát thanh, các trang web, xuất bản tạp
chí, tung ra các thông tin một mặt vu cáo chính sách dân tộc của Ðảng,
Nhà nước Việt Nam, mặt khác gây sức ép, kích động một số đối tượng lợi
dụng vấn đề dân tộc để hoạt động chống đối. Năm 2007, sau khi LHQ ra
"Tuyên ngôn về quyền của người bản địa", các đối tượng cực đoan, quá
khích trong các tổ chức của người dân tộc thiểu số Việt Nam sống lưu
vong như: IOC (Văn phòng Chămpa quốc tế), MFI (Hội những người miền
núi), KKF (Liên đoàn Khmer Krom) liền yêu cầu LHQ buộc Việt Nam công
nhận các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nam
Bộ là "tộc người bản địa" (!) và họ có "quyền dân tộc tự quyết" lập
"nhà nước tự trị" (!). Ở Việt Nam, khái niệm "người bản địa" là sản
phẩm của chế độ thực dân, do chính quyền thực dân sử dụng trong quá
trình đô hộ và chỉ tồn tại cùng với chế độ thực dân. Khi chế độ thực
dân bị đánh đổ thì khái niệm "người bản địa" cũng không còn cơ sở tồn
tại. Còn khái niệm người dân tộc thiểu số thường dùng để phân biệt các
dân tộc ít người với đồng bào Kinh (hay Việt - dân tộc đa số); khái
niệm này tồn tại cùng quá trình phát triển đất nước Việt Nam. Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam hình thành, phát triển cùng tiến trình lịch sử,
làm nên một dân tộc Việt Nam đoàn kết, thống nhất. Tuy có ảnh hưởng
trong giao thoa, tiếp biến văn hóa (như ngôn ngữ, trang phục, phong tục
tập quán...), nhưng mỗi dân tộc trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam
vẫn giữ được bản sắc riêng, không dân tộc nào bị đồng hóa trở thành dân
tộc khác. Do đó về lịch sử và khoa học, người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam khác với người bản địa theo quan niệm của LHQ. Rồi lợi dụng tình
trạng một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang cư trú ở vùng sâu,
vùng xa còn hạn chế về dân trí, khó khăn trong tiếp cận thông tin, các
thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn có sự phối hợp trong - ngoài của
các tổ chức phản động của người dân tộc thiểu số Việt Nam lưu vong.
Cùng với việc sử dụng một số diễn đàn quốc tế và internet để vu cáo Nhà
nước Việt Nam "chiếm đất", "bắt người thiểu số bỏ tiếng mẹ đẻ",... họ
còn chỉ đạo các đối tượng trong nội địa tuyên truyền, kích động, lôi
kéo đồng bào dân tộc thiểu số "đòi tự do tôn giáo, đòi tự trị, đòi
chính quyền trả lại đất đai"...
Không thể phủ nhận sự thật đang diễn ra trong đời sống hằng ngày ở
vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Các chương trình xóa đói
giảm nghèo, các công trình dân sinh như điện - đường - trường - trạm và
nước sạch,... thật sự đã làm nên một diện mạo mới cho cuộc sống của
đồng bào. Về văn hóa, phải khẳng định các năm qua, từ quan niệm xây
dựng một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mà văn hóa truyền thống
của các dân tộc đã luôn được coi trọng, bảo tồn, phát huy. Việc xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số đã có bước phát
triển vượt bậc, nhiều thiết chế văn hóa được xây dựng với cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại, nội dung hoạt động văn hóa thông
tin phong phú và ngày càng phù hợp, từ đó mức hưởng thụ văn hóa của bà
con từng bước được nâng cao. Thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII) của
Ðảng, và từ khi có Chỉ thị 39/1998/CT-TTg năm 1998 của Thủ tướng Chính
phủ về đẩy mạnh công tác văn hóa ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số,
các hoạt động văn hóa đã có nhiều chuyển biến tích cực. Ðến năm 2011 đã
có 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn bản; 38,7% số xã
có nhà văn hóa xã; 48% số xã có sân thể thao. Chương trình phủ sóng
phát thanh, truyền hình đã đến với người dân tộc thiểu số ở vùng cao,
vùng sâu. Tới cuối năm 2011, 100% số xã đặc biệt khó khăn đã có trạm
truyền thanh, 92% số người dân được nghe đài phát thanh, 85% được xem
truyền hình, trong đó có chương trình phát thanh, truyền hình bằng
tiếng Mông, Thái, Ê Ðê, Chăm, Khmer... Năm 2011, Chính phủ ban hành
Nghị định số 05/NÐ-CP về Công tác Dân tộc, trong đó quy định: Hỗ trợ
việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam; hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc
có chữ viết. Các dân tộc có trách nhiệm giữ gìn văn hóa truyền thống,
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp
luật; xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống; Hỗ trợ xây dựng, khai thác sử
dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của
đồng bào, định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng
khu vực hoặc từng dân tộc. Cũng năm 2011, Chính phủ có Quyết định 1270
phê duyệt Ðề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020". Ðề án tập trung ưu tiên phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số rất ít người, các dân tộc không có điều kiện bảo vệ, phát
huy di sản văn hóa dân tộc mình. Khôi phục các lễ hội truyền thống, tổ
chức Ngày hội văn hóa, nghệ thuật, thể thao khu vực, thi trang phục
truyền thống các dân tộc. Nhiều di sản văn hóa dân tộc được công nhận
là di sản văn hóa cấp quốc gia như "lễ hội Lồng tồng" của dân tộc Tày,
"lễ Cấp sắc" của dân tộc Dao. Từ sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam,
UNESCO đã công nhận một số di sản văn hóa các dân tộc là di sản văn hóa
thế giới như không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Mỹ Sơn,... Ðặc
biệt, ngày 19-4 hằng năm đã trở thành Ngày truyền thống văn hóa các dân
tộc Việt Nam.
Từ những thành tựu đã đạt được, đồng bào các dân tộc thiểu số luôn
nhận thức sâu sắc tình cảm và trách nhiệm của Ðảng, Chính phủ, nhân dân
cả nước và bạn bè quốc tế. Cũng vì thế, ngày 15-3-2011, tại Hội đồng
Nhân quyền LHQ (Geneva - Thụy Sĩ), Chuyên gia độc lập về các vấn đề
thiểu số, bà G. McDougall đã trình bày kết quả chuyến khảo sát Việt
Nam, qua đó đánh giá cao việc Việt Nam coi cộng đồng các dân tộc thiểu
số là bộ phận cấu thành của dân tộc Việt Nam. Bà hoan nghênh quyết tâm
chính trị, chính sách, biện pháp và chương trình của Chính phủ Việt Nam
trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực. Vì
thế, dù các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí
xuyên tạc, đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn một lòng tin tưởng vào
đường lối, chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc miền núi,
cùng cả nước xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.