Thứ Sáu, 22/11/2024
Xã hội
Thứ Hai, 30/9/2019 10:45'(GMT+7)

Nhiều cơ chế chính sách, pháp luật liên quan đến đào tạo nhân lực có tay nghề cao được ban hành

Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ hội nhập cơ hội và thách thức (ảnh minh họa)

Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ hội nhập cơ hội và thách thức (ảnh minh họa)

Các văn bản quy phạm pháp luật về GDNN được ban hành có căn cứ pháp lý, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, thực hiện theo tiến độ, kế hoạch được phê duyệt, đồng thời đã cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính trong lĩnh vực GDNN, hướng tới việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình cho người đứng đầu cơ sở GDNN, tạo cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội.

Để tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi cho các cơ sở GDNN được tuyển sinh, đào tạo chất lượng cao, ngày 30/11/2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 21/2018/TT-BLĐTBXH Quy định tiêu chí xác định chương  trình chất lượng cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Đây là cơ sở quan trọng để các cơ sở GDNN tổ chức thực hiện đào tạo các chương trình chất lượng cao, góp phần tăng nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đồng thời với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nhiều cơ chế chính sách phát triển đào tạo tay nghề cao đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành như: Đề án “Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế giai đoạn 2012 - 2015”(1);  Đề án “Phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020”(2); Chương trình mục tiêu GDNN - Phê duyệt ngành, nghề trọng điểm; trường được lựa chọn ngành, nghề trọng điểm giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến 2025.v.v...

CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH

Ngày 27/11/2014, Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015. Đây là một đạo luật đã thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nói chung, GDNN nói riêng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI(3), giải quyết nhiều bất cập trong thực tiễn, tạo nên một diện mạo mới của hệ thống GDNN ở Việt Nam, cụ thể:

Đổi mới hệ thống, trình độ đào tạo của GDNN

Theo quy định của Luật Giáo dục năm 2005, GDNN chỉ bao gồm trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong dạy nghề lại có các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Như vậy, hệ thống giáo dục Việt Nam có 2 trình độ trung cấp, 2 trình độ cao đẳng và do 2 cơ quan quản lý nhà nước khác nhau.

Để khắc phục bất cập nêu trên, Luật GDNN cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân, làm thay đổi toàn diện cấu trúc hệ thống GDNN. Hệ thống GDNN mới bao gồm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng. Đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong quá trình hội nhập.

Như vậy, các cơ sở GDNN bao gồm: Trung tâm GDNN (là sự thống nhất của trung tâm kỹ thuật, tổng hợp, hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề); trường trung cấp (là sự thống nhất của trường trung cấp chuyên nghiệp và trường trung cấp nghề) và trường cao đẳng (là sự thống nhất của cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề). Thực chất là đưa trình độ cao đẳng tách khỏi giáo dục đại học. Giáo dục đại học chỉ còn các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.

Đổi mới về tổ chức, quản lý đào tạo

Đổi mới phương thức đào tạo, cùng với tổ chức GDNN theo truyền thống (niên chế), Luật GDNN bổ sung thêm phương thức tổ chức đào tạo nghề nghiệp mới là đào tạo nghề theo tích lũy mô đun, tín chỉ. Đây được coi là một sự đổi mới căn bản, toàn diện nhất trong tổ chức, quản lý GDNN.

Phương thức này tạo ra sự khác biệt cơ bản so với phương thức đào tạo theo niên chế (truyền thống). Theo phương thức này, hệ thống GDNN sẽ là hệ thống mở, linh hoạt, đảm bảo liên thông thuận lợi giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc dân; người học được coi là trung tâm của quá trình đào tạo, được học theo năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, có thể học nhiều mô đun, nội dung trong cùng thời gian và được công nhận theo hình thức tích lũy các năng lực; người học có thể học rút ngắn hoặc kéo dài thời gian học tập hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân người học.

Đổi mới về thời gian đào tạo, thời gian đào tạo trình độ trung cấp đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên chỉ còn từ một đến hai năm học tùy theo nghề đào tạo khi học theo niên chế. Đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, nếu có nguyện vọng tiếp tục học lên trình độ cao hơn thì phải tích lũy thêm nội dung văn hóa trung học phổ thông theo quy định. Như vậy, nội dung văn hóa trung học phổ thông không trở thành nội dung bắt buộc đối với người học như quy định của Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục.

Thời gian học nghề theo tích lũy môđun, tín chỉ là thời gian tích lũy đủ số lượng mô đun, tín chỉ quy định cho từng chương trình đào tạo.

Một số đổi mới khác về tổ chức, quản lý đào tạo

Về hình thức: GDNN bao gồm cả đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên. Người học có thể học theo hình thức vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn hoặc học từ xa để lấy chứng chỉ sơ cấp, bằng tốt nghiệp trung cấp hoặc bằng tốt nghiệp cao đẳng.

Về tuyển sinh: Các trường được tự chủ xác định quy mô, chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm; được tuyển sinh nhiều lần trong năm; được xét tuyển hoặc thi tuyển hoặc kết hợp cả hai.

Về chương trình, giáo trình: Các trường được tự chủ trong việc xây dựng chương trình đào tạo dựa trên tiêu chuẩn kỹ năng nghề; Nhà nước không ban hành chương trình khung. Cơ sở GDNN được lựa chọn chương trình của nước ngoài đã được kiểm định để giảng dạy; được lựa chọn giáo trình đã có làm giáo trình của trường mình. Chương trình đào tạo phát triển dựa trên các tiêu chuẩn kỹ năng nghề, với sự tham gia của doanh nghiệp; hoạt động đào tạo gắn kết giữa doanh nghiệp, GDNN với thị trường lao động, việc làm và an sinh xã hội đã được chú trọng.

Về phương pháp dạy và học: Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Thí điểm thuê chuyên gia nước ngoài đào tạo trong một số ngành, nghề chất lượng cao cần đạt chuẩn quốc tế mà trong nước chưa đáp ứng được.

Về thi, xét tốt nghiệp: Thi tốt nghiệp chỉ áp dụng cho đào tạo theo niên chế. Người học theo mô đun, tín chỉ, sau khi tích lũy đủ mô đun hoặc tín chỉ theo quy định thì được xét tốt nghiệp (không phải thi tốt nghiệp cuối khóa).

Đào tạo đã từng bước chuyển hướng từ đào tạo theo hướng “cung” sang đào tạo theo hướng “cầu”, gắn với dự báo nguồn nhân lực, dự báo về việc làm, yêu cầu của doanh nghiệp. Chất lượng và hiệu quả đào tạo giáo dục nghề nghiệp đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng kể.

Đổi mới chính sách cho nhà giáo, người học

a) Nhà giáo trong cơ sở GDNN có các chức danh giáo viên, giáo viên chính, giáo viên cao cấp; giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp. Đồng thời có thang, bảng lương theo chức danh. Ngoài ra, đối với những nhà giáo dạy thực hành, dạy cả lý thuyết và thực hành thì được hưởng phụ cấp đặc thù ngoài các phụ cấp hiện nay quy định chung cho nhà giáo trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Nhà giáo là tiến sĩ, nghệ nhân hoặc có trình độ kỹ năng nghề cao công tác trong cơ sở GDNN công lập được kéo dài thời gian làm việc kể từ khi đủ tuổi nghỉ hưu (nếu có đủ sức khỏe, tự nguyện kéo dài thời gian làm việc và cơ sở GDNN có nhu cầu).

Đội ngũ nhà giáo từng bước được chuẩn hóa về kỹ năng tay nghề, nghiệp vụ sư phạm, ngoại ngữ, tin học,…; tình trạng bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề đào tạo, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ tin học, ngoại ngữ dần được khắc phục.

Luật GDNN có thêm nhiều chính sách cho người học nhằm tạo sự phân luồng tự động, thu hút người học vào đào tạo nghề nghiệp, cụ thể: Người học tốt nghiệp trình độ cao đẳng được công nhận danh hiệu kỹ sư thực hành hoặc cử nhân thực hành;

Người học được miễn học phí đối với các đối tượng chính sách xã hội; đối với người học tốt nghiệp trung học cơ sở khi học trung cấp; đối với những nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu và những ngành nghề đặc thù;

Người học là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật; người dân tộc kinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật có hộ khẩu thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú khi học trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng được hưởng chính sách nội trú;

Người học sau khi tốt nghiệp được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập; được hưởng tiền lương theo thỏa thuận với người sử dụng lao động dựa trên vị trí việc làm, năng lực làm việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu, mức lương cơ sở hoặc khởi điểm.

Đổi mới chính sách đối với cơ sở GDNN

Theo Luật GDNN, cơ sở GDNN có thêm một số chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước như: Được ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Miễn thuế đối với phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực GDNN để lại để đầu tư phát triển; Miễn, giảm thuế theo quy định đối với lợi nhuận thu được từ sản phẩm, dịch vụ được tạo ra từ hoạt động đào tạo; Ưu đãi về thuế đối với việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với hoạt động đào tạo, xuất bản giáo trình, tài liệu dạy học, sản xuất và cung ứng thiết bị đào tạo, nhập khẩu sách, báo, tài liệu, thiết bị đào tạo.

Ngoài ra, cơ sở GDNN không phân biệt công lập hay tư thục, được tham gia đấu thầu, nhận đặt hàng đào tạo của Nhà nước theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước; được vay vốn ưu đãi từ các chương trình, dự án trong nước và nước ngoài; được tham gia chương trình bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN trong nước và nước ngoài bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Đổi mới, nâng cao tính tự chủ của cơ sở GDNN

Theo Luật GDNN, cơ sở GDNN được nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm hơn so với trước đây, cụ thể: Tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm; Tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên; Tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn và duyệt chương trình đào tạo, giáo trình đào tạo; Tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình đào tạo theo niên chế hoặc tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ tùy thuộc vào điều kiện của từng cơ sở GDNN; Được quyền chủ động xây dựng và quyết định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh theo từng nghề, nằm trong khung học phí, lệ phí tuyển sinh theo quy định của pháp luật; cơ sở GDNN thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo.

Cơ sở GDNN có sử dụng ngân sách nhà nước được quyền quyết định việc huy động vốn, sử dụng vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao để mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo; tự chủ, tự chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Cơ sở GDNN có vốn đầu tư nước ngoài được tự chủ về cơ cấu tổ chức bộ máy.

Tăng tỷ lệ có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp

Tỷ lệ học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm ngay đạt ở mức tương đối cao, năm sau cao hơn năm trước. Tính trung bình năm 2018, tỷ lệ HSSV tốt nghiệp trình độ trung cấp, cao đẳng có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt khoảng 85% (trong đó tỷ lệ sinh viên cao đẳng ra trường có việc làm ngay đạt 87%, học sinh trung cấp đạt 82%). Năm 2017, tỷ lệ tương ứng là 80% (cao đẳng đạt 79%, trung cấp đạt 82%)./.

Đức Thuận

------------------------------------

(1)- Quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 và được sửa đổi, bổ sung bới Quyết định số 2047/QĐ-TTg ngày 11/11/2014 và Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 26/10/2015;
(2) - Quyết định số 761/QĐ-TTg ngày 23/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt "Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020";
(3) - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất