Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, từ năm 1986 đến nay, ngành giáo dục
và đào tạo đã liên tục đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển, cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới.
Công bằng trong tiếp cận giáo dục
Ba mươi năm đổi mới (1986-2016) là một giai đoạn lịch sử quan trọng
trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam, trong bối cảnh đó, ngành giáo
dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, phát triển cả về quy mô và chất
lượng.
Các công cuộc phổ cập giáo dục từ tiểu học cho đến bậc trung học đã được
triển khai liên tục và gặt hái được những thành quả nhất định.
Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I năm 2014; hoàn
thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010.
Tính đến tháng 6/2015, đã có 32 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên. Chất lượng giáo dục đỉnh
cao có bước phát triển mới. Một trong những minh chứng cho điều này là
việc ghi dấu ấn của học sinh Việt Nam trên sân chơi trí tuệ thế giới.
Tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, học sinh Việt Nam đã đạt
thành tích xuất sắc, đặc biệt là trong 4 năm vừa qua, 100% học sinh tham
gia đều đoạt giải.
Cụ thể, từ năm 2000 đến năm 2015 đoạt 101 huy chương vàng, 169 huy chương bạc, 174 huy chương đồng và 43 Bằng khen.
Để có nền giáo dục phát triển, liên tục trong 30 năm qua, ngành giáo dục
đã có những giải pháp đổi mới tích cực, khắc phục nhiều hạn chế, yếu
kém. Cụ thể như: giao quyền chủ động và hướng dẫn nhà trường, giáo viên
xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách
linh hoạt, gắn với các di sản văn hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương;
xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn; chú trọng giáo dục đạo đức và
giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Một số mô hình giáo dục mới đã được triển khai như: Phương pháp “Bàn tay
nặn bột”; mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) với định hướng lấy học
sinh làm trung tâm và thí điểm mô hình ở cấp trung học cơ sở; chương
trình Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục; mô hình trường học gắn kết
với sản xuất, kinh doanh tại địa phương… góp phát triển năng lực và hình
thành phẩm chất người học.
Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo
dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn.
Trước hết là ưu tiên đầu tư cho các địa bàn có nhiều khó khăn, phát hành
công trái giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây
dựng trường học kiên cố, đạt chuẩn chất lượng và thực hiện xóa đói giảm
nghèo, thông qua đó tạo nhiều cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch
vụ giáo dục.
Những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với giáo viên cũng tạo nên
sự phát triển mạnh mẽ của bậc phổ thông. Các trường lớp của Việt Nam đã
và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo
cho việc dạy và học có chất lượng tương đương với các nước khác trong
khu vực.
Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu
học, trên 400 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường
chuẩn quốc gia.
Cần đổi mới đồng bộ để phát triển
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong nhiều năm, giáo dục Việt Nam
chỉ chủ yếu tập trung cải cách bậc phổ thông, thiếu giải pháp đồng bộ.
Đó cũng là lý do ra đời đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,"
được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa XI) năm 2013
thông qua.
Mục tiêu tổng quát và những nội dung cốt lõi của Đề án “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo” là giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện, xây dựng nền giáo dục mở, dân chủ, thực học, thực
nghiệp (dạy và học thực chất, học đi đôi với hành), có cơ cấu và phương
thức hợp lý, gắn với xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất
lượng.
Bên cạnh đó, Đề án hướng tới chuẩn hóa hệ thống giáo dục; đổi mới phương
thức kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, tin
cậy. Việc đánh giá kết quả hướng tới hình thành năng lực, phẩm chất chứ
không dừng lại ở đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức của người học.
Việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa mới cũng được ngành giáo dục
tích cực triển khai, dự kiến sẽ chính thức được áp dụng từ năm 2018.
Lần đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông này, Bộ Giáo dục và
Đào tạo sẽ xây dựng chương trình tổng thể trước, sau đó đến chương trình
môn học và cuối cùng là xây dựng bộ đề cương sách giáo khoa và sách
giáo khoa của từng môn. Để xây dựng chương trình sẽ có một tổng chủ biên
toàn bộ chương trình và chủ biên từng môn học.
Quy trình này khoa học và bài bản hơn lần làm chương trình, sách giáo khoa trước.
Theo một số chuyên gia giáo dục, trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, cần phải có sự phân biệt căn bản giữa giáo dục
phổ thông và giáo dục đại học.
Giáo dục phổ thông là dạy những kiến thức đã ổn định, trang bị kiến thức
và rèn luyện những phẩm chất cơ bản cho công dân. Còn giáo dục đại học
chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và ngay trong quá
trình học tập đã tham gia sáng tạo tri thức mới.
Vì vậy, việc giao quyền tự chủ cho các đại học, trước hết là tự chủ về
học thuật, là điều kiện tiên quyết để giáo dục đại học phát triển. Tự
chủ phải gắn liền với tự chịu trách nhiệm, cần để các trường đại học tự
xây dựng thương hiệu và uy tín của mình.
Những đổi mới về cơ chế, chính sách cũng là điều kiện tiên quyết trong
quá trình đổi mới căn bản và toàn diện. Trong hoàn cảnh khó khăn hiện
nay của đất nước, không nên đầu tư dàn trải và kém hiệu quả mà nên ưu
tiên đầu tư tập trung.
Ngoài những cơ chế chính sách về tài chính, ngành cần phải đổi mới hàng
loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan để giáo dục-đào tạo thực sự
là quốc sách hàng đầu./.
(TTXVN)