Một trong những chỉ số quan trọng để minh chứng việc bảo đảm quyền con người ở các quốc gia có được thực thi và đi vào cuộc sống hay không là việc tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được quyền học hành, nâng cao trình độ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số (DTTS), người yếu thế trong xã hội.
Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách, giải pháp thiết thực, phù hợp để tăng cường bảo đảm các điều kiện học tập và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực vùng DTTS.
Những chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục DTTS ở Việt Nam không những góp phần bảo đảm quyền văn hóa cho mọi người dân, mà còn là minh chứng sinh động nhằm phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu giáo dục của nước ta, trong đó có thành tựu nổi bật của công tác giáo dục DTTS.
HIỆN THỰC HÓA KHÁT VỌNG "AI CŨNG ĐƯỢC HỌC HÀNH" CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó có 53 DTTS, với 13,4 triệu
người, chiếm 14,6% dân số cả nước. Đa số người DTTS cư trú ở vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện
tích của cả nước. Đây là những nơi núi cao, địa hình chia cắt, giao
thông đi lại khó khăn, nhưng đồng thời cũng là địa bàn có vị trí chiến
lược, xung yếu về quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái.
Dưới chế độ thực dân, phong kiến trước đây, hầu hết người DTTS ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa quanh năm suốt tháng chỉ biết quẩn quanh nơi rừng
sâu núi thẳm, sống tự cấp tự túc, không được đến trường, đến lớp nên
rơi vào cảnh mù chữ, ít có kiến thức, hiểu biết về mọi mặt của đời sống
xã hội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công không chỉ là bước ngoặt
vĩ đại đưa dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới, mà cũng là thời điểm
giúp đồng bào các DTTS từng bước được tiếp cận với ánh sáng tri thức
văn hóa của dân tộc và nhân loại. Khi trả lời các nhà báo nước ngoài dịp
đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”.
“Ham muốn tột bậc” của Bác Hồ cũng là mục tiêu cao cả, khát vọng cháy
bỏng của Đảng, Nhà nước Việt Nam hơn bảy thập niên qua, đó là làm cho
mọi người dân, nhất là đồng bào DTTS “ai cũng được học hành”. Từ khi lập
Đảng, lập quốc đến nay, trong các văn kiện đại hội của Đảng và các bản
Hiến pháp, bao giờ Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng đề cập đến việc tạo cơ
hội bình đẳng, điều kiện thuận lợi cho nhân dân nói chung, các DTTS nói
riêng được quyền tiếp cận, hưởng thụ môi trường, dịch vụ giáo dục cơ bản
để không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ, góp phần bảo đảm chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định, giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội
(KT-XH). Việc quan tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực cho đồng bào DTTS ở biên giới, miền núi không chỉ là trách
nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước đối với những người dân ở khu vực
“phên giậu” Tổ quốc, mà còn là vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa là
nhiệm vụ thường xuyên để góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc và nâng cao sức mạnh nội sinh cho đất nước.
Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc về chính sách dân tộc “Bình đẳng, tôn
trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc và giúp
nhau cùng phát triển”, những năm qua, cùng với đẩy mạnh phát triển
KT-XH, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, cấp ủy, chính quyền
các địa phương đã chú trọng chăm lo công tác giáo dục ở vùng đồng bào
DTTS. Xuất phát từ đặc điểm lịch sử dân tộc và điều kiện địa lý, địa
hình ở các nơi không giống nhau, Việt Nam đã thành lập nhiều mô hình
trường học đáp ứng nhu cầu học tập cho người DTTS, như: Trường thanh
niên dân tộc, trường vừa học vừa làm, trường thiếu sinh quân, trường phổ
thông dân tộc nội trú và bán trú, trường dự bị đại học dân tộc… Những
mô hình này đã được đại diện UNESCO ghi nhận là một trong những nỗ lực,
sáng tạo của Việt Nam nhằm tạo cơ hội cho mọi người DTTS được đến trường
đến lớp, góp phần xóa nạn mù chữ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
CHÚ TRỌNG CHĂM LO NGUỒN ĐÀO TẠO NHÂN LỰC LÀ NGƯỜI DTTS
Mọi chủ trương, chính sách chỉ có ý nghĩa khi đi vào thực tiễn và được
thực tiễn kiểm chứng. Thành công của công tác giáo dục DTTS ở Việt Nam
được thể hiện sinh động qua những “con số biết nói”. Hiện nay, 100% xã
vùng DTTS và miền núi có trường THCS, tiểu học và hầu hết các xã có
trường, điểm trường và lớp học mầm non; cả nước có 315 trường phổ thông
dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với tổng số 109.245 học sinh nội
trú. Trong đó, số trường phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia
chiếm khoảng 40%. Ngoài ra còn 975 trường phổ thông dân tộc bán trú, 5
trường đào tạo dự bị đại học dân tộc.
Theo ông Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, những năm
qua, việc đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng DTTS, miền núi được
Đảng, Nhà nước và các địa phương xác định là một trong những ưu tiên
trong chiến lược phát triển KT-XH. Đến nay, đã có 51/53 DTTS có học sinh
cử tuyển đi học đại học, học sinh là người DTTS ở vùng đặc biệt khó
khăn được Nhà nước hỗ trợ chi phí ăn, ở, học. Mạng lưới trường, lớp giáo
dục mầm non, trường phổ thông ở vùng DTTS, miền núi tiếp tục được củng
cố, mở rộng. Trong đó mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú đã góp
phần to lớn trong tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng ở vùng DTTS, miền núi, vùng có điều
kiện KT-XH đặc biệt khó khăn trong suốt thời gian qua.
Một trong những việc làm thiết thực thể hiện sự quan tâm đối với giáo
dục DTTS là nhiều địa phương đã đẩy mạnh triển khai việc dạy tiếng DTTS
cho học sinh bản địa. Hiện tại 23 tỉnh, thành phố có đông đồng bào
DTTS đang triển khai dạy và học 8 thứ tiếng DTTS, gồm: Tiếng Mông, Chăm,
Khmer, Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Mơ Nông, Thái. Đây là minh chứng rõ nét
trong việc góp phần bảo đảm quyền văn hóa cho các DTTS theo đúng tinh
thần Hiến pháp 2013 đã hiến định: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Nhờ chú trọng chăm lo, vun đắp sự nghiệp “trồng người” ở vùng DTTS,
hiện nay tỷ lệ người DTTS biết chữ độ tuổi 15-60 đạt 93,44%. Cả nước có
hơn 13.000 người DTTS có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng; hơn
78.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp. Vì vậy, tỷ lệ cán bộ
lãnh đạo các cấp là người DTTS trong hệ thống chính trị ngày càng tăng
cao. Điển hình là trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp gần đây, tỷ lệ đại
biểu Quốc hội là người DTTS chiếm từ 15,6% đến 17,3%, cao hơn tỷ lệ
người DTTS trên tổng số dân là 14,6%. Một trong những những nhân tố tiêu
biểu được dư luận biết đến là chị Triệu Thị Huyền, dân tộc Dao ở thôn
Khe Phưa, xã Minh An, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sau khi tốt nghiệp
đại học sư phạm, chị Huyền được đề cử và trúng cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV khi mới 24 tuổi và là đại biểu trẻ nhất của Quốc hội nhiệm kỳ
2016-2021.
Ngoài việc chăm lo, hỗ trợ học sinh đi lại, ăn ở để học hành ngày càng
tốt hơn, Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách hỗ trợ thiết thực góp
phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các em. Trong số 19 ấn phẩm
báo, tạp chí vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định cấp cho vùng DTTS
và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2019-2021 có hai ấn phẩm
dành riêng cho học sinh các DTTS. Đó là Chuyên đề “Măng non” của Báo Nhi
đồng cấp cho trường tiểu học các xã vùng DTTS và miền núi; Chuyên đề
“Thiếu nhi Dân tộc” của Báo Thiếu niên Tiền phong cấp cho trường THCS
các xã vùng DTTS và miền núi, trường dân tộc nội trú, dân tộc bán trú
cụm xã vùng DTTS và miền núi. Những tờ báo này được ví như cánh tay nối
dài giữa Đảng, Nhà nước với những chủ nhân tương lai của đất nước ở vùng
DTTS, miền núi; đồng thời góp phần cung cấp thông tin, truyền bá tri
thức, hướng dẫn học sinh các DTTS thực hiện nếp sống văn minh, khoa học.
Những chuyển biến tiến bộ trong sự nghiệp giáo dục Việt Nam nói chung,
công tác giáo dục DTTS nói riêng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Trong lần thứ ba trở lại thăm Việt Nam vào tháng 8-2017, bà Irina
Bokova, Tổng giám đốc UNESCO, đã khẳng định: “Tôi thấy Việt Nam có nhiều
thay đổi, nhất là sự phát triển tích cực về kinh tế cũng như chất lượng
giáo dục, trong đó có thành tựu về thúc đẩy sự công bằng, bình đẳng về
giáo dục”./.
Phúc Nội (qdnd.vn)