Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành, phát triển, không ngừng hoàn
thiện gắn liền với quá trình lãnh đạo của Đảng. Các kỳ đại hội Đảng,
căn cứ thực tiễn và dự báo tình hình đất nước, thế giới; căn cứ kết quả
thực hiện các quan điểm, chủ trương, mục tiêu đã được xác định và những
kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết, những nhận thức lý luận mới, Đảng bổ
sung, phát triển các quan điểm, chủ trương xây dựng đất nước phù hợp
với yêu cầu của giai đoạn, thời kỳ mới. Nói những điểm mới trong Dự thảo
các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, trong đó có những nội dung về
văn hóa-xã hội, là nói những nội dung được bổ sung, hoàn thiện trên cơ
sở kế thừa, phát triển những quan điểm, chủ trương đã có.
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị, Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm năm 2011-2015 và phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm năm 2016-2020 (gọi chung
là Dự thảo Văn kiện), những nội dung về văn hóa - xã hội được trình bày
thành bốn vấn đề gồm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo;
phát triển nguồn nhân lực; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ;
phát triển văn hóa, xây dựng con người; quản lý phát triển xã hội; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Hiểu theo nghĩa rộng, giáo dục, đào tạo
và khoa học, công nghệ là bộ phận của văn hóa, song vì đây là hai lĩnh
vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nên dự thảo văn kiện trình bày thành
hai vấn đề riêng.
Dự thảo Văn kiện kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị trong Văn
kiện Đại hội XI của Đảng; tiếp thu, chọn lọc những nội dung cốt lõi của
các nghị quyết Trung ương khóa XI về văn hóa - xã hội, nâng lên tầm Văn
kiện, đồng thời căn cứ vào yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước để lựa
chọn những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp và có thể thực hiện được trong
năm năm tới, trong đó có những điểm mới nổi bật.
I- Về phương hướng, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ gắn với phát
triển nguồn nhân lực
1- Dự thảo Văn kiện tiếp tục khẳng định quan điểm: Giáo dục, đào tạo
cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục,
đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. Đại hội XI của
Đảng đã định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển khoa học, công nghệ và xác định khâu đột phá chiến lược: "Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ." Kế thừa, cụ thể hóa và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Dự
thảo Văn kiện xác định phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công
nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực; chuyển mạnh quá trình
giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với
thực tiễn; phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học,
công nghệ thật sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh;
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu
tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các
cấp.
2- Đồng thời với việc xác định những phương hướng chính, những nhiệm vụ
chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và
phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, dự thảo văn kiện đặc biệt chú
trọng các nhiệm vụ, giải pháp gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học công
nghệ với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột
phá chiến lược.
Trước hết, giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ phải gắn kết, tương
tác lẫn nhau. Đổi mới giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao tiềm năng, kỹ năng
sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ của con người; khoa học, công
nghệ phải gắn bó và thông qua nguồn nhân lực được đào tạo để thâm nhập
sâu vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Hướng đích của đổi mới
giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ là phục vụ
thiết thực sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa, hội nhập quốc tế,
trước hết là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, theo đó là chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Giáo dục, đào tạo hướng vào xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng,
với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo,
đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản
xuất, kinh doanh; quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch
phát triển nguồn nhân lực; tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân
lực, gắn kết cung-cầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều
kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả;
khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong nhà trường; thí điểm chuyển
mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp
quản lý, đầu tư; và quan trọng nhất, đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực
hành, tác phong công nghiệp...
Khoa học, công nghệ tập trung xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc
gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức;
tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp;
khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ; phát triển, nâng cao
năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ, phát triển
thị trường khoa học công nghệ, đồng thời hoàn thiện pháp luật về sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ... theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc
vận hành thị trường khoa học và công nghệ; có chính sách đào tạo, trọng
dụng, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, nhất là các chuyên
gia có nhiều đóng góp; khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở
nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ
tại Việt Nam.
II- Về phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam
1- Kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn
của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"
và những nội dung Văn kiện Đại hội XI của Đảng về văn hóa, Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước".
Vận dụng những quan điểm của Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI vào điều kiện, yêu cầu năm năm tới, Dự thảo Văn kiện
trình Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo các cấp, các ngành phải nhận
thức đầy đủ và thực hiện có kết quả gồm mục tiêu xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh".
2- Báo cáo chính trị trình Đại hội XI, Đảng xác định bốn nhiệm vụ củng
cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa
dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; phát triển hệ thống
thông tin đại chúng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn
hóa. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nêu sáu nhiệm vụ và đề ra 4 nhóm
giải pháp.
Cân nhắc yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước trong năm năm tới, kế
thừa có chọn lọc văn kiện Đại hội XI và tiếp thu những định hướng được
nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về văn hóa, Dự thảo văn kiện
Đại hội XII lựa chọn, định hướng bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong
đó nhấn mạnh một số nội dung mới:
Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, trọng tâm là đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn
mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều
kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân; tạo
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm
cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh
lịch sử, văn hóa dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp,
tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn; đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn
hóa, làm tha hóa con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo
đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn
minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, trong đó chú trọng xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn
hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng
cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia
đình; phát huy vai trò văn hóa trong gia đình, nhà trường, cộng đồng;
thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất
là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các
cuộc vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa"; từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; phát huy
các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
Đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế: Chú trọng
chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các
đoàn thể; thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế; xây dựng
văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân.
Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị
trường văn hóa có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn
hóa; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du
lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển; đổi mới, hoàn thiện thể
chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị
trường văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa...
III- Về phương hướng và giải pháp quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đặc biệt là bảo đảm an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội là một trong những thành tựu nổi bật trong 30 năm đổi
mới, trực tiếp là trong năm năm qua. Dự thảo Văn kiện xác định những
nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn vấn đề này trong năm
năm tới. Điểm nhấn và cũng là điểm mới trong dự thảo văn kiện là vấn đề
quản lý phát triển xã hội.
1- Đại hội XI của Đảng đã đề ra những định hướng quan trọng về quản lý
phát triển xã hội. Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011 định hướng
xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng
lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2011-2020 nhấn mạnh có chính sách và các giải pháp
phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa
nông thôn và thành thị. Báo cáo chính trị trình Đại hội XI xác định
phát triển kinh tế-xã hội hài hòa giữa các vùng, đô thị và nông thôn;
đấu tranh phòng chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông...
Trên thực tế, những định hướng nêu trên chậm được thể chế hóa, cụ thể
hóa và chỉ đạo thực hiện, dẫn đến những bất cập về nhận thức và lúng
túng trong hoạt động thực tiễn.
Quán triệt và cụ thể hóa tư tưởng Đại hội XI vào điều kiện năm năm tới,
dự thảo văn kiện nêu rõ nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, thực hiện các chính sách phù
hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải
quyết hài hòa các quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích, ngăn chặn, giải quyết
có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã
hội.
2- Về nhiệm vụ, giải pháp, dự thảo văn kiện xác định một số định hướng
chủ yếu: Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh
tế-xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong
xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu-nghèo, bảo đảm sự ổn định và
phát triển xã hội bền vững; thực hiện các giải pháp, chính sách và quản
lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh
vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo
đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý; kịp thời kiểm
soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội; đẩy mạnh các giải
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai
nạn giao thông, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người.
Những điểm mới về văn hóa, xã hội nêu trong dự thảo văn kiện Đại hội XII
phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng. Những nhận thức này đang
được cán bộ, đảng viên, nhân dân nghiên cứu, đóng góp ý kiến để bổ sung,
hoàn thiện. Sau khi được Đại hội XII nhất trí thông qua sẽ trở thành
những định hướng chính trị hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân phấn đấu triển
khai, tạo những chuyển biến mới trong đời sống văn hóa, xã hội theo mục
tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
GS. TS. Phùng Hữu Phú
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương