I- Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một nội dung kinh tế cốt lõi của phát triển kinh
tế. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là một chủ
trương lớn, quan trọng xuyên suốt từ Đại hội XI của Đảng.
Đặc trưng của mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng là:
Tổng sản phẩm trong nước tăng nhờ huy động ngày càng nhiều các yếu tố
sản xuất như vốn tài chính, đất đai, tài nguyên được khai thác thêm và
lao động vào các lĩnh vực sản xuất. Tăng trưởng theo chiều rộng bị giới
hạn bởi quy mô các nguồn lực đầu vào; trong khi đó năng suất lao động
không tăng hoặc tăng không đáng kể.
Đặc trưng quan trọng nhất của mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu
là tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào tăng năng suất lao động nhờ lực
lượng lao động được đào tạo, có tay nghề cao, ứng dụng tiến bộ khoa
học-công nghệ. Vai trò nhân tố năng suất tổng hợp của tất cả các yếu tố
sản xuất có ý nghĩa to lớn, chủ yếu, quyết định đối với tăng trưởng kinh
tế.
Trong tăng trưởng theo chiều sâu, độ gia tăng nhiều hơn tổng phần tăng
của các yếu tố sản xuất đầu vào, do áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ
khoa học-công nghệ, tri thức quản lý kinh doanh, vốn và tài nguyên được
sử dụng có hiệu quả hơn và trình độ lao động ngày càng cao nhờ đẩy mạnh
giáo dục và đào tạo.
Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế có quan hệ chặt
chẽ. Muốn đổi mới mô hình tăng trưởng, phải thực hiện mạnh mẽ cơ cấu lại
nền kinh tế; muốn cơ cấu lại nền kinh tế đúng hướng và đạt hiệu quả,
phải thực hiện gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Đại hội XI đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ là:
"Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững..."
Về mô hình tăng trưởng, Đại hội XI chủ trương: "Chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất
lượng, hiệu quả, tính bền vững."
Về cơ cấu lại nền kinh tế, Đại hội XI xác định: "Thực hiện cơ cấu lại
nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp
với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển
doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế."
Kế thừa những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Dự thảo Văn
kiện Đại hội XII đã có những phát triển mới rõ rệt, nêu rõ hơn định
hướng và giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Về định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng:
- Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển
chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao
động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc
tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu
trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Về nguồn lực tăng trưởng: Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ
chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả
vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò
quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông
nghiệp.
- Động lực và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là: Đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao
năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập
khẩu công nghệ mới tiên tiến; thực hiện phương thức quản lý, quản trị
hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản
xuất kinh doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế
cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và
tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Về định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng:
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế
và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập
trung vào các lĩnh vực quan trọng: Cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là
đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân
sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo
đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn
và xây dựng nông thôn mới.
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền
kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực. Cụ thể là cơ cấu lại nông
nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp,
tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh phát triển các
ngành dịch vụ; phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ
vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển,
đảo; phát triển các vùng và khu kinh tế, tăng cường liên kết giữa các
địa phương trong vùng và giữa các vùng; đẩy mạnh phát triển doanh
nghiệp.
II- Về hoàn thành thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội
dung lớn trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Qua các nhiệm kỳ đại hội,
từ Đại hội VI đến Đại hội XI, quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được phát triển, ngày
càng hoàn thiện.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa-là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm về xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: "Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối", "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân", "Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường
từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế
thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa."
Dự thảo Văn kiện Đại hội XII đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ
tới, trong đó có những điểm mới chủ yếu rõ rệt như sau:
- Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ,
cần tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Dự thảo Văn kiện đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam như sau: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Dự thảo Văn kiện cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các
bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò
của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh
tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách
phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh
tế-xã hội
Cách thể hiện như trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó về định hướng xã hội
chủ nghĩa, thể hiện ở năm điểm: Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội; xác lập quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất;
và nhất là: Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển.
Vấn đề "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" đã được thống nhất nêu rõ
trong Cương lĩnh và Hiến pháp. Trong khi khẳng định nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, cũng xác định: "trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo".
Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo
pháp luật. Trong dự thảo văn kiện đã nêu: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà các
thành phần kinh tế khác không đầu tư. Còn các nguồn lực nhà nước (tài
nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng
với các công cụ, cơ chế, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng,
điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn
ở nước ta, khi các nguồn lực của Nhà nước cùng với các cơ chế, chính
sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát
triển ở lĩnh vực, địa bàn đó.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước, hoạt động
theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, và được cơ cấu lại như
đã nêu ở trên.
- Mục tiêu đến năm 2020 là:
Phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể
chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm
sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển
con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội,
bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo
đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây dựng và thực
thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển
kinh tế-xã hội.
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên
cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách,
thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu
quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản
xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời,
sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách
phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp:
Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá
nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Nhà nước bảo vệ quyền sở
hữu tài sản hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật.
Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính
nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo
đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền
bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền
kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải
quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ
chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách
thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực
lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây
dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà
nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn
thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn
thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh cổ phần
hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh
nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai,
tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...)
trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích và nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi
ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị
trường.
Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo
nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị
trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát
triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Đồng thời với quá trình hoàn
thiện thể chế, cần có sự chỉ đạo quyết liệt hơn trong tổ chức thực hiện.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ
phần.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển
mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến
khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chú trọng chuyển
giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản
phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có
trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi
giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước.
Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh
nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy
mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra,
giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế
mặt tiêu cực theo quy định của pháp luật.
- Phương hướng phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường:
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch
vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng
chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong
giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách
phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch
vụ.
Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Đẩy mạnh hoàn thiện thể
chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò
của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền
kinh tế. Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại
thị trường.
- Phương hướng đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế:
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực
hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước
quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,... Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể;
kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ.
- Phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước về kinh tế-xã hội và phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội:
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế-xã
hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về kinh tế-xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng
kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc
bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ
hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu
quả công tác tham mưu về kinh tế-xã hội ở các cấp, các ngành.
Nhà nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện
và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc
quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách hành
chính. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại. Không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự.
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người
dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng và
giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế-xã hội./.
PGS. TSKH. Nguyễn Văn Đặng
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương