Thứ Sáu, 29/11/2024
Khoa học, công nghệ
Thứ Ba, 21/9/2010 21:34'(GMT+7)

Phát triển khoa học, công nghệ bảo vệ thực vật

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Ba mươi báo cáo khoa học xuất sắc trình bày trong hội nghị đã được các đại biểu thảo luận sôi nổi. Và đã tổng kết được thành tựu về nghiên cứu khoa học, những thành công trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất đó là: Ngày càng nắm rõ bản chất, nguyên nhân quy luật phát sinh, phát triển của sâu bệnh hại trên cây lúa và một số cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Ðẩy mạnh mở rộng ứng dụng quy trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM, ICM, ba giảm, ba tăng trên cây lúa. Hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của chúng gây ra như: bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá. Bảo đảm và tăng năng suất sản lượng lúa trong những năm qua; Nghiên cứu chọn tạo nhiều giống lúa có năng suất chất lượng cao đưa vào sản xuất đại trà khá tốt. Bước đầu nghiên cứu Biến đổi gien và bảo vệ thực vật (BVTV) có kết quả mở ra hướng đi mới và đẩy mạnh nghiên cứu lĩnh vực khó khăn phức tạp này. Cùng với sự biến đổi khí hậu, một số đối tượng sâu bệnh mới nổi lên như: Rày nâu, rày lưng trắng truyền bệnh vi-rút nguy hiểm là vàng lùn, lùn xoắn lá ở đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) và lùn sọc đen ở Bắc Trung Bộ... Bước đầu được nghiên cứu sâu hơn để tìm giải pháp phòng chống. Một số đối tượng sâu bệnh xuất hiện trên cây cà-phê, hồ tiêu gây chết hàng loạt, cần thiết phải tập trung nghiên cứu, tìm ra giải pháp phòng trừ hữu hiệu mới có thể phát triển trong thời gian tới. So với hai kỳ hội thảo khoa học lần trước: Vấn đề biện pháp sinh học đã được đề cập mạnh mẽ hơn. Số lượng báo cáo về biện pháp sinh học khá nhiều. Các đối tượng Thừa địch ký sinh được nghiên cứu sâu hơn về bản chất và quy luật phát triển, ý nghĩa trong phòng trừ đối tượng sâu bệnh hại. Nhiều báo cáo về tổ chức sản xuất, về sử dụng có tính xã hội hóa trong phòng trừ sâu hại rất tốt như nhân nuôi sử dụng nấm Matazum trừ rày nâu ở Sóc Trăng, nhân nuôi sử dụng Trichoderua trừ bệnh hại trên cây hồ tiêu... Ðây là biện pháp cần đề nghị Nhà nước đầu tư phát triển mạnh để sử dụng một cách rộng rãi có tính xã hội hóa cao, nhằm hạn chế thuốc trừ sâu cải thiện môi trường.

Bảo vệ môi trường trong nông nghiệp, nông thôn đang là vấn đề rất bức xúc. Là rào cản của quá trình phát triển. Quá trình đô thị hóa, quá trình công nghiệp hóa tạo ra nhiều khu công nghiệp mà khi xây dựng người ta rất ít chú ý đến xử lý nước thải, rác thải ra môi trường. Các làng nghề trong nông thôn như chăn nuôi, gia trại, trang trại bò sữa, những lò mổ, những làng thuộc da... gây quá nhiều ô nhiễm cho môi trường. Việc sử dụng phân hóa học, thuốc độc hóa học BVTV trên đồng ruộng, trong kho tàng, trong chế biến làm cho rau quả, thực phẩm không an toàn cho con người và khu hệ sinh vật, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ðây là những vấn đề nóng bỏng và bức xúc cần được giải quyết. Những mô hình, những thực tiễn xử lý vệ sinh môi trường bằng công nghệ EM (Emro Nhật Bản) cần được tổng kết và mở rộng.

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được, những tồn tại trong công tác BVTV thời gian qua. Các nhà khoa học kiến nghị với các bộ, ngành liên quan cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước sáu kiến nghị như sau:

Kế thừa thành quả của chương  trình nghiên cứu tổng hợp nhiều năm trên cây lúa. Mở rộng việc ứng dụng IPM, ICM, giống biến đổi gien, ba giảm, ba tăng, sản xuất lúa cải tiến IRS... không để đứt quãng (dưới sự quản lý theo chương trình tập trung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tiếp tục đầu tư nghiên cứu về giống kháng, chống chịu sâu bệnh, đẩy mạnh nghiên cứu biện pháp sinh học, bảo vệ quần thể Thiên địch ký sinh, sử dụng phân bón và nông dược sinh học. Coi trọng nghiên cứu sự biến động sinh thái và dịch tễ học các bệnh vi-rút. Ký sinh vi-rút và môi giới truyền bệnh và ký chủ cùng môi trường trên cây lúa để không bị dịch hại xuất hiện.

Trước mắt đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét giảm số lượng và chủng loại thuốc BVTV độc hại dùng trong nông nghiệp (theo số liệu thống kê được hằng năm chúng ta đã dùng khoảng hơn 100 nghìn tấn thuốc trừ sâu thuốc độc bảng B). Ðây là vấn đề rất bức xúc và cần quan tâm. Chỉ nên sử dụng thuốc hóa học BVTV khi cần thiết theo nguyên tắc bốn đúng, tiến tới loại bỏ nhập khẩu và sử dụng các loại thuốc  thuộc diện hạn chế sử dụng độ độc cao. Ðầu tư kinh phí để nghiên cứu hậu quả tác động của thuốc trừ sâu bệnh đến cây trồng, hệ sinh vật đất, đến sức khỏe con người, vật nuôi và giải pháp khắc phục.

Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có chủ trương, chính sách chỉ đạo cụ thể sử dụng biện pháp sinh học trong quản lý dịch hại tổng hợp. Cần ưu tiên và đơn giản hóa thủ tục đăng ký sử dụng chế phẩm sinh học, đẩy nhanh tốc độ xã hội hóa biện pháp sinh học, sử dụng các Thiên địch ký sinh, như vậy mới hạn chế được việc sử dụng chất độc trong BVTV. Trong tình hình môi trường nông nghiệp, nông thôn hiện nay, Nhà nước cần xã hội hóa việc sản xuất, ứng dụng các chế phẩm sinh học BVTV vào xử lý môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tổ chức tổng kết, hội thảo đánh giá trên diện rộng Công nghệ vi sinh hữu hiệu EM để công nhận và chính thức phát triển mạnh mẽ công nghệ này trong vệ sinh môi trường ở Việt Nam.

Những năm qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Cục Bảo vệ thực vật gần như mới tập trung chỉ đạo vào cây lúa, ít chú ý chỉ đạo cây trồng cạn ở các vùng miền Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên, trung du, miền núi phía bắc. Trong lúc đó, các cây trồng có giá trị kinh tế rất cao như cà-phê, hồ tiêu đang bị bệnh vi-rút rất nặng, người sản xuất gặp nhiều rủi ro. Việc nghiên cứu nguyên nhân và phòng trị bệnh chưa được quan tâm đúng mức.

Nhà nước và các bộ, ngành liên quan cần quan tâm đến công tác bảo vệ thực vật sau thu hoạch. Sâu bệnh hại trong kho tăng gần như đang bỏ trống, ít ai nghiên cứu, chỉ đạo. Trong lúc đó thực tế thất thoát do sâu bệnh gây ra sau thu hoạch là rất lớn. Vấn đề xử lý hóa chất độc cho ngũ cốc, rau quả và thuốc đông dược cũng gây hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng và môi trường, nên cũng cần đặc biệt quan tâm.

Ðề nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần kiểm điểm lại việc tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình GAP (VIETGAP, GTOBAL GAP) vì sao chưa hiệu quả và chậm được mở rộng trong sản xuất. Nhất là rau quả ở các vùng đô thị đang rất độc hại cho người tiêu dùng, môi trường đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Rau quả nhập từ nước ngoài vào rất độc hại. Vấn đề quản lý thị trường rau quả thực phẩm không có hiệu quả như mong muốn.

Nguyễn Quang Hiếu
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký
Hội KHKT Bảo vệ thực vật Việt Nam

(Theo Nhân Dân)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất