Kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế. Từ khi tiến hành đường lối đổi mới đến nay,
nhận thức, chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện. Các hoạt động lập pháp nhằm tạo hành lang pháp lý cho
kinh tế tư nhân phát triển, diễn ra mạnh mẽ, thể chế hóa, đưa đường lối,
chủ trương của Đảng vào thực tiễn.
Tích cực tạo lập hành lang pháp lý cho kinh tế tư nhân
Kinh
tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Việc
thừa nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bước phát triển dài trong tư duy
kinh tế của Đảng.
Đến
Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam mới chính thức
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Song, nếu nhìn rộng ra và bao
quát hơn, ngay từ năm 1951, Đảng ta coi kinh tế tư nhân như một bộ phận
của nền kinh tế, là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nước
nhà(1). Bước vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa (từ năm 1958), Đảng,
Nhà nước Việt Nam lại nỗ lực biến nền kinh tế nhiều thành phần thành
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc
doanh và tập thể; kinh tế cá thể và tư bản tư doanh là đối tượng trực
tiếp được “cải tạo”. Trong giai đoạn 1960 - 1975, kinh tế tư nhân vẫn
hiện diện trong nền kinh tế dưới hình thức kinh tế cá thể, tuy nhiên, do
không được thực sự thừa nhận, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu giới hạn
trong khu vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân và hoạt
động chủ yếu ở “thị trường ngầm”.
Với
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đại hội VI (năm 1986) phê phán và chỉ ra rằng “chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”(2); do đó, đã nôn nóng, chủ quan,
duy ý chí khi muốn “xóa bỏ ngay các thành phần phi xã hội chủ nghĩa,
nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh”(3). Trên cơ sở
“coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ”(4), Đại hội VI khẳng định: “Bằng những biện pháp thích hợp,
sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết
chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(5).
Với quan điểm này, các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa” được
tồn tại và hoạt động dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
Từ
năm 1986 đến năm 1998, tư duy, nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân có
bước phát triển đáng kể, song chính sách và luật pháp liên quan đến khu
vực kinh tế này vẫn còn nhiều bất cập. Đáp ứng yêu cầu đó, Luật Doanh
nghiệp ra đời năm 1999 xóa bỏ sự phân biệt đối xử về mặt luật pháp đối
với doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam, thay thế cho hàng loạt luật đã từng
tồn tại trước đó bằng những nội dung tập trung hơn, đầy đủ hơn.
Để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999,
hàng loạt văn bản hướng dẫn và hỗ trợ được ban hành, xoay quanh các vấn
đề: nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bãi bỏ một số
giấy phép kinh doanh, xử phạt hành chính trong đăng ký kinh doanh, hướng
dẫn thi hành một số điều Luật Doanh nghiệp... Những văn bản pháp quy đó
góp phần hình thành nên môi trường pháp lý tương đối thông thoáng cho
kinh tế tư nhân phát triển.
Đại
hội IX (năm 2001) của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới, đầy đủ hơn
khi khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh”(6). Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh
tế tư nhân, xác định “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân”.
Năm
2005, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua, có những bước tiến
đáng kể so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật Doanh nghiệp năm 2005
quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; quy định về nhóm công ty với đối
tượng áp dụng là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; các tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động của các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra khung khổ
pháp luật thống nhất về doanh nghiệp; chấm dứt phân biệt đối xử đối với
các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế; góp phần thiết lập môi trường
kinh doanh bình đẳng, công bằng.
Trên
nền tảng một bức tranh kinh tế - xã hội khá ấn tượng và sáng sủa - kết
quả của 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đại hội X của Đảng (năm 2006) có
bước đột phá mới trong nhận thức về kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(7).
Đây là lần đầu tiên kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư cách
là một thành phần kinh tế, được khuyến khích phát triển; đồng thời,
chấp thuận cho đảng viên được làm kinh tế tư nhân, nhằm phát huy mọi
tiềm năng con người của xã hội, tạo động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân
phát triển.
Đại
hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế,
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Đại hội XII
(năm 2016) của Đảng khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn khi coi kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; nhấn mạnh yêu
cầu cấp bách “hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn
kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế
nhà nước”(8). Đại hội XII đã mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh
tế này tiếp tục khởi sắc.
Thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương nói trên, Nhà nước đã ban hành các bộ
luật và văn bản hướng dẫn. Cụ thể là: Luật Thuế tài nguyên năm 2009,
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010,
Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Trọng tài thương mại 2010... Đặc
biệt, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 là những xung
lực quan trọng tác động tích cực đến sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân. Luật Doanh nghiệp 2014 có nhiều nội dung đổi mới đáng kể, nhất
là đối với kinh tế tư nhân trên tinh thần tạo điều kiện phát triển tự do
kinh doanh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, phù hợp với xu
hướng hội nhập chung của thế giới, tạo lộ trình thông thoáng thúc đẩy
nhiều doanh nghiệp được thành lập mới. Luật Doanh nghiệp 2014 rút ngắn
thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành chính,
cải cách con dấu, bảo vệ tốt lợi ích của nhà đầu tư, dễ dàng trong tái
cơ cấu doanh nghiệp... Một trong những tháo gỡ quan trọng của Luật Doanh
nghiệp 2014 là đã mạnh dạn bỏ nội dung ngành, nghề kinh doanh; bỏ việc
xác định vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề - bước đi đột phá này đã
hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật
không cấm theo quy định tại Hiến pháp 2013. Nói cách khác, Luật Doanh
nghiệp 2014 đã mang lại công bằng và cơ hội kinh doanh cho các ngành
nghề khác nhau, giảm đáng kể rủi ro thương mại và pháp lý, giảm chi phí
giao dịch, tăng độ an toàn và tính chủ động, sáng tạo cho doanh nghiệp
trong kinh doanh; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng hết tiềm năng
và cơ hội kinh doanh để phát triển...
Ngày
03-6-2017, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh
tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được ban hành, với mục tiêu tổng quát: phát
triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết đề ra các mục tiêu cụ thể về chỉ số phát triển kinh
tế tư nhân; đưa ra các nhóm giải pháp chủ yếu như: thống nhất nhận thức,
tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát
triển kinh tế tư nhân; tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi
cho phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo,
hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất
lao động; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đổi mới nội
dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội -
nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân...
Như
vậy, nếu như trước năm 1986, kinh tế tư nhân tồn tại nhưng không được
thừa nhận, thì từ sau năm 1986, thành phần kinh tế này được công khai
thừa nhận, có được những hành lang pháp lý để phát triển.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhưng còn nhiều bất cập
Với
những đổi mới, điều chỉnh chủ trương, chính sách, kinh tế tư nhân Việt
Nam phát triển mạnh mẽ về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu, loại
hình doanh nghiệp, từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh tới các hộ kinh
doanh cá thể.
Số
lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký có xu hướng tăng
trong giai đoạn 2011 - 2017: So sánh giữa năm 2017 và năm 2011, số lượng
doanh nghiệp thành lập mới tăng 1,6 lần, số vốn đăng ký tăng 2,5 lần,
tỷ trọng vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp tăng 1,5 lần(9). Như
vậy, 2017 là năm số doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký đạt kỷ
lục, cao nhất từ trước đến nay.
Xét
theo quy mô lao động, tại thời điểm ngày 01-01-2017 cả nước có hơn
10.000 doanh nghiệp lớn (tăng 29% so với năm 2012), nhưng quy mô chỉ
chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp, giảm so với 2,3% của năm 2012. Doanh
nghiệp vừa tăng 23,6%, doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và doanh nghiệp siêu
nhỏ tăng tới 65,5% và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp(10).
Cho
đến cuối năm 2017, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, chiếm tỷ trọng 39% - 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động
của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Kinh
tế tư nhân đã xác lập lại cơ cấu đầu tư theo từng thời kỳ phát triển,
nâng cao tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng
thể nền kinh tế quốc dân; góp phần khơi dậy tiềm năng quan trọng của
đất nước, tăng cường nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế nói
chung; góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Thông qua phát triển kinh tế tư nhân, quyền làm chủ
của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy - đó
là một trong những cơ sở không thể thiếu để mở rộng quyền làm chủ của
nhân dân về chính trị, văn hóa, xã hội.
Khu
vực kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà
nước, vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân; thu
hút một bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực mới cho
thị trường lao động, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn
chế việc di dân vào đô thị; thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế,
thu hút vốn và công nghệ.
Bên
cạnh những kết quả đạt được, khu vực kinh tế tư nhân còn tồn tại không
ít hạn chế, bất cập, đó là quy mô của doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ
(98,6% số doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, trong đó chủ yếu là
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân có quy
mô siêu nhỏ (dưới 10 người) chiếm tới gần 70%)(11); tỷ lệ doanh nghiệp
quy mô vừa chỉ chiếm 1,6%. Do quy mô nhỏ, nên số lượng lao động trong
mỗi doanh nghiệp cũng khá nhỏ, trung bình là 18 lao động đặt trong so
sánh với doanh nghiệp nhà nước là 504 lao động, doanh nghiệp FDI là 312
lao động(12). Ngoài quy mô việc làm nhỏ, năng suất lao động ở khu vực
kinh tế tư nhân tương đối thấp nếu không muốn nói là thấp nhất so với
các khu vực kinh tế khác.
Số
lượng doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh, nhưng chất lượng hoạt động
chưa tương xứng; hằng năm số doanh nghiệp phải thay đổi, chấm dứt hoạt
động sản xuất, chuyển hướng hoạt động còn rất lớn. Số doanh nghiệp đăng
ký thành lập nhiều, nhưng số thực sự hoạt động chỉ vào khoảng 50%. Điều
đó cho thấy sự tăng trưởng thiếu bền vững của các doanh nghiệp tư nhân.
Bên cạnh đó, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân còn
manh mún, không đồng đều, tỷ lệ lớn doanh nghiệp sử dụng thiết bị máy
móc cũ kỹ, lạc hậu, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân không ổn
định...
Một số khuyến nghị, giải pháp để kinh tế tư nhân phát triển bền vững
Để
góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trên, cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp. Từ phía khu vực kinh tế tư nhân, các khuyến nghị giải
pháp cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, về xây dựng chiến lược, quy hoạch.
Để
có thể tồn tại và phát triển, khu vực kinh tế tư nhân mà đại diện tiêu
biểu của nó là các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tư nhân cần
chủ động xây dựng chiến lược quy hoạch hợp lý trên cơ sở hoàn thiện bộ
máy tổ chức quản lý, đẩy mạnh hoạt động marketing, thực hành các biện
pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh cùng nhiều biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động khác.
Để
chiến lược kinh doanh mang tính khả thi cao, các doanh nghiệp tư nhân
cần nghiên cứu kỹ mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, chiến lược
phát triển ngành, nghề; đồng thời, nắm bắt khả năng của mình để xây dựng
chiến lược cho tương lai. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược
riêng, phù hợp với khả năng về vốn, năng lực nhân sự, mục tiêu phát
triển, ngành hàng tham gia kinh doanh... Các doanh nghiệp có thể lựa
chọn chiến lược riêng cho mình, như: chiến lược sản phẩm; chiến lược giá
bán; chiến lược phân phối sản phẩm; chiến lược tăng trưởng; chiến lược
tài chính; chiến lược tổ chức nhân sự; chiến lược đối ngoại của doanh
nghiệp...
Hai là, về bộ máy tổ chức quản lý.
Các
doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, sắp
xếp, sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý; hoàn thiện phương thức quản
lý và cơ cấu tổ chức; nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên, phát
triển văn hóa doanh nghiệp lành mạnh. Cần đào tạo doanh nhân về kiến
thức và kỹ năng quản lý doanh nghiệp để có thể thực hành được những mô
hình quản trị doanh nghiệp hiện đại. Các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh
cần vượt qua cung cách hoạt động thiếu bài bản, quản lý phần nhiều dựa
vào kinh nghiệm, chạy theo thị trường, thiếu phân tích khoa học. Việc
hoàn thiện tổ chức bộ máy, phương thức quản lý cũng như đào tạo cán bộ
cần được đưa vào kế hoạch theo một lộ trình xác định.
Chủ
động nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing sẽ giúp người
quản lý nắm bắt được nhu cầu, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng kịp thời
và hiệu quả, bảo vệ được thị phần hiện có và mở rộng kinh doanh sang các
lĩnh vực khác. Các phương thức thu hút khách hàng, như quảng cáo, tiếp
thị, tư vấn, dịch vụ sau bán hàng,... sẽ mang lại hiệu quả cao cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, về chủ động phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
Trong
sản xuất kinh doanh, rủi ro là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, các hộ
kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tư nhân cần chủ động phòng ngừa và
hạn chế những tác động của chúng. Một cơ sở sản xuất, một doanh nghiệp
tư nhân có thể gặp những rủi ro từ mọi khâu của quá trình hoạt động, như
rủi ro đầu vào; rủi ro đầu ra hay thị trường tiêu thụ khi thị hiếu
người tiêu dùng thay đổi; rủi ro thiên tai; rủi ro về cơ chế, chính sách
thay đổi... Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp có thể áp dụng các
phương pháp, như đa dạng hoá sản phẩm; thâm nhập thị trường từng bước;
liên doanh, liên kết; mua bảo hiểm; lập quỹ dự phòng... Các biện pháp kể
trên cần được thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn, năng lực tài
chính của doanh nghiệp cũng như phù hợp với những chuyển động của nền
kinh tế, của các yếu tố tài chính...
Bốn là, về đổi mới công nghệ.
Việt
Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, với tự do hóa
mạnh mẽ cùng những chuẩn mực mới sẽ tạo nhiều cơ hội cho doanh nghiệp tư
nhân phát triển, mở rộng thị trường, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nếu sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân không được đổi mới, không đủ sức
cạnh tranh, không trụ vững được sẽ bị đánh bật khỏi thị trường. Để hoạt
động kinh doanh mang lại hiệu quả như mong muốn, các doanh nghiệp tư
nhân cần coi trọng yếu tố công nghệ. Đổi mới công nghệ, hiện đại hóa
trang thiết bị được coi là chìa khoá của thành công. Bên cạnh đó, tiết
kiệm, giảm giá thành, giảm tỷ lệ hàng kém chất lượng, chống hàng giả,...
cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đổi mới
công nghệ thành công, các doanh nghiệp tư nhân thường gặp muôn vàn khó
khăn về thông tin công nghệ, thông tin thị trường, nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn, tài chính, các chính sách pháp lý...; do đó, các
doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị một lộ trình thích hợp, không
loại trừ việc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác cũng như
tranh thủ các cơ hội từ phía nhà nước./.
--------------------------------------------------------------------
(*)
Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia
“Phát triển thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam (1999-2014): từ chính
sách đến thực tiễn (2016-2018), mã số QG.16.40
(1)
Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng thông qua (tháng 2-1951) nêu rõ: “Tiểu thương, tiểu
chủ, cần được giúp đỡ để phát triển thương nghiệp và thủ công nghiệp.
Những nhà tư sản dân tộc cần được khuyến khích, giúp đỡ hướng dẫn kinh
doanh, để góp sức vào việc phát triển kinh tế quốc dân”. Xem Văn kiện
Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 475
(2), (3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần I, tr.21, 20, 53, 41
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Sđd, Phần II, tr. 25
(7) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 108
(9) Số liệu của Cục Đăng ký quản lý kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo: http://vneconomy.vn/pha-ky-luc-gan-127000-doanh-nghiep-lap-moi-nam-2017-20171225151256465.htm
(10) Số liệu của Tổng cục Thống kê, theo: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Thuong-hieu-DN/889107/doanh-nghiep-lon-dem-tren-dau-ngon-tay-doanh-nghiep-sieu-nho-chiem-toi-74%
(11) Nguyễn Hồng Sơn: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 22, tháng 6- 2017
(12) Tổng cục Thống kê: Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016, tr. 122
TS. Phạm Thị Lương Diệu,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Cộng sản điện tử