Nước ta vốn là nước nước nông nghiệp, nông dân chiếm đại bộ phận trong dân cư, thì đất đai có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Do vậy, mỗi khi sửa đổi, bổ sung, hoặc ban hành Hiếp pháp, Luật Đất đai mới... thì việc thể chế hóa chế độ sở hữu đất đai trong Hiến pháp, cũng như trong Luật Đất đai luôn thu hút được sự chú ý đặc biệt của nhân dân.
Trong quá trình lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai, đại đa số nhân dân tán thành chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, không tư nhân hóa đất đai. Mặc dù có ý kiến cho rằng, phải đa hình thức sở hữu đất đai, trong đó có sở hữu tư nhân về đất đai, tuy nhiên đây là ý kiến thiểu số, không đại diện cho nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước ta đã thông qua Hiến pháp mới. Điều 53 Hiến Pháp đã khẳng định rõ: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Trên cơ sở Hiến pháp, ngày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai. Điều 4, Luật Đất đai quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này”.
Việc thể chế hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiếp pháp và Luật Đất đai đã nhận được sự đồng tình, nhất trí cao trong nhân dân. Tuy nhiên, một vài ý kiến cho rằng sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm “mơ hồ”, “tù mù”, người dân không có thực quyền gì đối với đất đai... Ý kiến trên dựa trên những lập luận cho rằng: Đã là chủ sở hữu thì đó phải là một chủ thể, một pháp nhân cụ thể có tư cách pháp nhân, còn “toàn dân” không thể là một khái niệm kinh tế để thực thể đó có thể sở hữu một cái gì đó; là sự đánh tráo khái niệm “sở hữu nhà nước về đất đai”...
Trước hết, cần khẳng định rằng, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là khái niệm “mơ hồ”, “tù mù”, người dân không có thực quyền gì đối với đất đai. Bởi vì, sở hữu toàn dân về đất đai không đồng nhất với sở hữu nhà nước về đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai phải được hiểu là đất đai không thuộc sở hữu của riêng ai, toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý. Việc quy định Nhà nước ở nước ta là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất quản lý xuất phát từ bản chất của Nhà nước là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân, mọi tài sản, tư liệu sản xuất do Nhà nước đại diện cho dân là chủ sở hữu đều được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích chung của toàn thể nhân dân. Đồng thời, thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai không làm hạn chế đến quyền của tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Vì Luật Đất đai (Điều 166, 167) quyđịnh người sử dụng đất có các quyền chung và các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay còn tránh được những hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra. Nghiên cứu sản xuất nông nghiệp, trực tiếp là địa tô trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, Các Mác và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra tính chất vô lý của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, nguồn gốc đẻ ra địa tô, làm cho giá cả nông phẩm tăng, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng này, V.I.Lênin đã chủ trương phải quốc hữu hoá đất đai, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, thay vào đó là chế độ công hữu về đất đai.
Đối với nước ta, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế độ sở hữu phong kiến về đất đai mà hình thức sở hữu đặc trưng là sở hữu tư nhân về đất đai đã kìm hãm sự phát triển nông nghiệp và dẫn đến tình cảnh đại đa số nông dân không có ruộng đất, phải thuê lại của địa chủ, phong kiến nên bị bóc lột địa tô rất nặng nề. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến về đất đai là một trong những mục tiêu của cách mạng nước ta do nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta hiện nay, thực hiện chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, một mặt sẽ là phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta giành được trải qua quá trình đấu tranh vô cùng gian khổ với bao sự hy sinh, mất mát của các thế hệ chiến sĩ cách mạng Việt Nam; mặt khác, sẽ tạo ra tiền đề, cơ hội dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa chủ mới - giai cấp từng gây bao đau khổ cho nông dân nước ta trước đây. Chỉ có thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, chúng ta mới xóa bỏ tình trạng một nhóm người dùng độc quyền sở hữu đất đai để bóc lột người sử dụng đất.
Mặc dù hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, song cũng không thể thực hiện đa hình thức sở hữu về đất đai. Bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và có hạn; là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, không giống như các tư liệu sản xuất, tài sản thông thường khác. Do đó, đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật thì việc khai thác, sử dụng đất đai mới bảo đảm hiệu quả cao, nhằm phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong thời gian qua, ở nước ta nảy sinh một số tiêu cực, hạn chế trong quản lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực đó không phải do bản chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra. Những hạn chế, tiêu cực đó một mặt, do sự yếu kém trong quản lý đất đai của Nhà nước ta, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai còn không ít hạn chế, yếu kém, một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt khác, do nước ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, đất đai có nguồn gốc rất phức tạp. Từ thực trạng đó, Luật Đất đai năm 2013 đã có những điều chỉnh, bổ sung để việc quản lý, sử dụng đất đai chặt chẽ, hiệu quả hơn, hạn chế nảy sinh những tiêu cực, hạn chế.
Từ những vấn đề trên cho thấy, việc quy định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật trong Luật Đất đai năm 2013 trên cơ sở Hiến pháp là cần thiết và đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay, bảo đảm sự thống nhất lợi ích của người dân và lợi ích quốc gia. Việc một số người đưa ra luận điệu cho rằng sở hữu toàn dân về đất đai là khái niệm “mơ hồ”, “tù mù”, người dân không có quyền thực sự đối với đất đai... nhằm mục đích gì ? Thực chất, đó là sự biến tướng của luận điệu cổ súy cho tư nhân hóa đất đất đai, phủ nhận chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được quy định trong Hiến pháp và Luật Đất đai ở nước ta hiện nay. Chúng ta cần hết sức cảnh giác với luận điệu đó, bởi nó dễ gây ra sự phân tâm trong xã hội, sự không đồng thuận trong nhân dân, cản trở việc triển khai thực hiện Luật Đất đai./.
PGS.TS Nguyễn Đức Độ
(Nguồn: QĐND)