Đau lòng vì sự chủ quan của cha mẹ
Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh là 1,73%. Như vậy, mỗi
năm thế giới có khoảng 8 triệu trẻ chào đời với một dị tật bẩm sinh. Tại
Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1,5 triệu trẻ chào đời, trong đó có từ 2 -
3% bị bệnh lý di truyền, dị tật bẩm sinh như: Mắc bệnh Down (chậm phát
triển trí tuệ), hội chứng Ewards (dị tật do thừa nhiễm sắc thể), dị tật
ống thần kinh, thiếu men G6PD (trẻ không đủ men này các tế bào hồng cầu
khó hoạt động bình thường), tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh; bị
Thalassemia (tan máu bẩm sinh)... Tuy nhiên, khi mang thai, nhiều bà mẹ
vẫn chủ quan bỏ qua việc sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh để
rồi hối hận khi không may gặp phải hậu quả đau lòng.
Còn vợ chồng chị T.T.T (29 tuổi, ở quận
Hoàng Mai, Hà Nội) như đứt từng khúc ruột khi quyết định bỏ đi đứa con
đầu lòng. Chị T chia sẻ: “Khi mang thai ở tuần 16, thấy con cử động nhẹ
trong bụng, tôi thực sự hạnh phúc. Thế nhưng, tin dữ ập tới, chỉ ít ngày
sau đó khi tôi đi kiểm tra thai kỳ và thực hiện sàng lọc trước sinh thì
bác sĩ thông báo, thai nhi bị mất một cánh tay và còn mắc thêm bệnh
Thalassemia (tan máu bẩm sinh-PV)”.
Cách đây 5 năm, khi mang thai đứa con
đầu lòng, chị Đ.T.L (31 tuổi, ở phố Lê Duẩn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội)
chỉ đi siêu âm thai nhi một lần chủ yếu để xác định giới tính. Chị L cho
biết, khi đó thấy cả hai vợ chồng khỏe mạnh, gia đình nội, ngoại không
ai mắc bệnh nên suốt quá trình mang thai đã chủ quan, không tuân thủ
thực hiện kỹ thuật sàng lọc trước sinh. May mắn đã không mỉm cười với
hai vợ chồng khi đứa con sinh ra bị chậm phát triển trí tuệ.
Theo BS Tô Kim Hoa, chuyên gia trong
lĩnh vực sàng lọc phát hiện sớm dị tật bẩm sinh ở trẻ, các kết quả
nghiên cứu cho thấy, tình trạng tật, bệnh ở thai nhi và trẻ sơ sinh
thường bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu như: Sai lệch di truyền (bất
thường nhiễm sắc thể, rối loạn gene, rối loạn chuyển hóa…). Trong quá
trình mang thai, bà mẹ tiếp xúc môi trường độc hại (như: Hóa chất, không
khí, đất, nước…), hoặc uống thuốc trong ba tháng đầu của thai kỳ, thậm
chí mắc các bệnh nhiễm trùng trong khi mang thai (như: Giang mai,
Rubella, nhiễm trùng tiểu, nhiễm trùng sinh dục…). Việc sàng lọc trước
sinh và sơ sinh là để phát hiện, can thiệp sớm nhằm hạn chế các tật,
bệnh.
Giảm tối đa hậu quả nặng nề về thể chất và tinh thần
Nhờ sự tiến bộ của khoa học, nhiều dị
tật bẩm sinh có thể được phát hiện sớm và can thiệp kịp thời bằng kỹ
thuật sàng lọc trước sinh và sơ sinh, đem lại cho trẻ một cuộc sống khỏe
mạnh, bình thường. Trong quá trình thăm khám, các chuyên gia cho rằng,
nếu chẩn đoán sai, không phát hiện ra dị tật hay bệnh ở thai nhi sẽ để
lại nhiều hệ lụy. Vì vậy, người dân khi xét nghiệm sàng lọc phải đến các
cơ sở uy tín, chất lượng.
Sàng lọc trước sinh là siêu âm hình thái
thai nhi, đo độ mờ da gáy khi tuổi thai từ 11 - 13 tuần để phát hiện
nguy cơ mắc hội chứng Down và một số bệnh lý khác. Siêu âm hình thái và
cấu trúc các cơ quan của thai nhi vào lúc tuổi thai từ 20 đến 24 tuần
nhằm phát hiện các bất thường của hệ thần kinh, hệ tim mạch, ở lồng
ngực, dị tật của dạ dày - ruột, sinh dục - tiết niệu, xương... Sàng lọc
sơ sinh là lấy máu gót chân trẻ 48 giờ sau sinh nhằm phát hiện một số
bệnh như: Suy giáp bẩm sinh, thiếu men G6PD, tăng sản tuyến thượng thận
bẩm sinh và một số rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học,
nhiều dị tật bẩm sinh đã có thể được phát hiện sớm và can thiệp kịp thời
bằng sàng lọc trước sinh và sơ sinh, giúp đem lại cho trẻ một cuộc sống
khỏe mạnh, bình thường. Sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh là
việc dùng các biện pháp như siêu âm, xét nghiệm máu mẹ, xét nghiệm nước
ối, lấy máu gót chân trẻ… để giúp phát hiện sớm các bệnh lý do rối loạn
chuyển hóa hoặc di truyền ngay từ trong giai đoạn bào thai và sơ sinh,
từ đó có các biện pháp can thiệp và điều trị kịp thời.
Hiện nay, mỗi thai phụ đều được khuyến
khích sàng lọc trước sinh ngay từ 3 tháng đầu mang thai để giúp phát
hiện sớm các bất thường ở thai nhi. Để hạn chế thấp nhất những hậu quả
do các dị tật bẩm sinh không được sàng lọc, tất cả các bà mẹ mang thai
nên tham gia sàng lọc trước sinh và sơ sinh để phát hiện sớm các dị tật
bẩm sinh nếu có hoặc tránh được những hậu quả nặng nề về thể chất và
tinh thần, giảm số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng,
góp phần nâng cao chất lượng dân số. Để hạn chế thấp nhất những hậu quả
do các dị tật bẩm sinh không được sàng lọc, tất cả các bà mẹ mang thai
nên tham gia sàng lọc trước sinh và sơ sinh để phát hiện sớm các dị tật
bẩm sinh nếu có hoặc tránh được những hậu quả nặng nề về thể chất và
tinh thần, giảm số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng,
góp phần nâng cao chất lượng dân số.
Hiện trên cả nước có 5 trung tâm sàng
lọc chẩn đoán trước sinh và sơ sinh tại các bệnh viện, gồm: Phụ sản
Trung ương, Phụ sản Hà Nội, Từ Dũ (TPHCM), Viện Huyết học và Truyền máu
Trung ương, Nhi Trung ương. Ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ
trách Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) cho biết, ở Việt Nam mới áp dụng việc
miễn phí thực hiện hai xét nghiệm sàng lọc trước sinh gồm: Siêu âm để
phát hiện bất thường hình thái thai nhi; xét nghiệm máu mẹ và xét nghiệm
sàng lọc sơ sinh đối với hai bệnh thiếu men G6PD và suy giáp bẩm sinh
cho một số nhóm đối tượng như người nghèo, cận nghèo, vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn. Còn lại, đa phần, nguồn chi phí cho các loại
xét nghiệm sàng lọc đều do người dân tự chi trả (chiếm khoảng 90%).
Thời gian tới, ngành Dân số sẽ thúc đẩy
việc đưa chương trình sàng lọc này vào phạm vi thanh toán của bảo hiểm y
tế. Mặt khác, chương trình sàng lọc trước sinh và sơ sinh sẽ tiến tới
mở rộng phạm vi các loại bệnh được đưa vào danh mục thanh toán của bảo
hiểm y tế để tăng cơ hội tiếp cận cho người dân.
Theo các chuyên gia y tế, không phải tất
cả bệnh lý của thai nhi đều được phát hiện từ trong bụng mẹ. Chính vì
vậy, phải có sàng lọc sơ sinh, tức là lấy máu ở gót chân trẻ mới sinh ra
trong vòng 36 đến 48 giờ để xét nghiệm. Việc sàng lọc này có thể phát
hiện được 3 bệnh là suy giáp trạng bẩm sinh, thiếu men G6PD và tăng sản
thượng thận bẩm sinh, trong đó thiếu men G6PD là nhiều nhất. Trẻ bị bệnh
này thường bị vàng da, có thể có nhiều biến chứng nguy hiểm trong giai
đoạn sơ sinh, tuy nhiên có thể phòng ngừa nếu được phát hiện sớm.
Ba thời điểm quan trọng để kiểm tra thai kỳ
Siêu âm:
- Tuần thứ 11 - 14 của thai kỳ: Siêu âm giúp đo độ mờ da gáy để tầm soát hội chứng Down và một số bệnh lý khác.
- Tuần thứ 20-22 của thai kỳ: Đây là
thời điểm khảo sát hình thái học thai nhi, giúp phát hiện hầu hết những
dị tật của thai về hình thái, cấu trúc như dị tật ở đầu, mặt, chân, tay
và các bộ phận khác.
- Tuần thứ 32 của thai kỳ: Siêu âm để
đánh giá sự tăng trưởng của thai, phát hiện các trường hợp thai chậm
tăng trưởng trong tử cung.
Ngoài 3 thời điểm này, bác sĩ có thể chỉ định thêm những lần khác tùy theo tình hình của từng bà mẹ.
Xét nghiệm:
- Xét nghiệm máu người mẹ: Xét nghiệm
này nên thực hiện sớm trong 3 tháng đầu thai kỳ. Thông qua việc kiểm tra
các chất do bào thai tiết ra trong máu mẹ, có thể biết được thai phụ có
nguy cơ sinh con mắc bệnh lý di truyền ở mức độ cao hay thấp. Cùng với
siêu âm thai nhi, nếu thai phụ thuộc nhóm có nguy cơ cao, bác sĩ sẽ tư
vấn và chỉ định xét nghiệm di truyền. Đây mới chính là kỹ thuật giúp
chẩn đoán xác định các bất thường ở bào thai.
- Xét nghiệm di truyền: Được thực hiện
vào 3 tháng đầu và giữa của thai kỳ, gồm sinh thiết gai nhau và chọc ối
giúp phát hiện những thai nhi bị rối loạn nhiễm sắc thể và bị bệnh thiếu
máu tán huyết di truyền bẩm sinh. Thông qua sàng lọc trước sinh, những
thai phụ bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm sởi hoặc Rubella cũng có thể
được phát hiện.
T.Trang - M.Anh - giadinh.net.vn