Sau 35 năm đổi mới, đặc biệt, từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu khá toàn diện. Nông nghiệp phát triển với tốc độ khá cao và ổn định, nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân ngày càng được nâng cao. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, trực tiếp là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần 2 năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(1).
15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA X – NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT
Sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X (Nghị quyết số 26) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã thu được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào những thành tựu phát triển chung của đất nước, cụ thể:
Thứ nhất, trên cơ sở khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta, từ đó các chính sách phát triển trong lĩnh vực này đã được quan tâm nhiều hơn. Nghị quyết khẳng định trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt. Những đổi mới trong nhận thức, quan điểm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đem lại những kết quả tích cực. Nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp được duy trì khá cao, giai đoạn 2008-2020 tăng trưởng trung bình đạt 2,92%/năm, chất lượng ngày càng được cải thiện. Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định: “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và ngày càng khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế trong những lúc khó khăn”(2). Việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý, phát huy vai trò của kinh tế hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, đổi mới tổ chức hoạt động của các hợp tác xã, các nông, lâm trường quốc doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ đã có kết quả tích cực, tạo năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp tăng.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp thực chất và hiệu quả hơn, hoạt động sản xuất chuyển mạnh theo hướng hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, phát huy lợi thế của mỗi địa phương và vùng miền trên cả nước. Tỷ trọng các ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng ngày càng tăng. Số lượng cơ sở chế biến quy mô công nghiệp và tỷ trọng sản phẩm chế biến tăng. Chương trình xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, sạch đẹp, văn minh hơn. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Đầu tư của doanh nghiệp vào khu vực nông nghiệp có xu hướng tăng; liên kết sản xuất trong chuỗi giá trị, khép kín có bước phát triển. Cơ cấu lại ngành lâm nghiệp đã thực hiện theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến; sắp xếp các nông, lâm trường quốc doanh và phát triển dịch vụ môi trường rừng đạt kết quả tích cực. Hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, sản xuất trên biển đã được tổ chức lại theo mô hình hợp tác đối với khai thác vùng biển khơi và mô hình đồng quản lý đối với vùng biển ven bờ, bước đầu đã thu hút được đông đảo ngư dân và góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng và an toàn tàu cá. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng, thị trường tiêu thụ được mở rộng”(3).
Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn được phát triển, nhiều làng nghề, ngành nghề truyền thống được phục hồi, phát triển, nhiều khu cụm công nghiệp được xây dựng, nhiều doanh nghiệp, dịch vụ đầu tư ở địa bàn nông thôn. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn được đầu tư nâng cấp như hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống điện, thông tin và hệ thống thuỷ lợi. “Nâng cấp và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng các công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước trọng yếu ở vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng kết cấu hạ tầng liên xã, cấp huyện, vùng, bảo đảm tính kết nối theo hệ thống, nhất là về thuỷ lợi, giao thông, hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn”(4)…
Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở được phát huy, dân chủ cơ sở, môi trường văn hoá, trật tự xã hội ở nông thôn được nâng lên. Vai trò chủ thể của nông dân được phát huy trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Đời sống vật chất tinh thần của người nông dân được cải thiện rõ rệt. Các thành tựu về xoá đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm nhanh, năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn theo chuẩn nghèo đa chiều là 13,5%, đến năm 2020, chỉ còn khoảng 4,2%. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng gấp 4,5 lần trong giai đoạn 2008-2020.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Thứ nhất, nhận thức lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong hệ thống tổng thể, toàn diện, đồng bộ trong một số chính sách còn chưa rõ, vì vậy, các chính sách đôi khi thiếu đồng bộ, hiệu quả không cao. Về thực chất, nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề mang tính tổng thể, gắn kết với toàn bộ quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế- xã hội. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn không đơn thuần là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội. Do vậy, cần có sự nhận thức lý luận đầy đủ về tính hệ thống của các nội dung này và chính sách cũng phải đảm bảo giải quyết tính hệ thống và mối quan hệ giữa các nội dung đó để đảm bảo phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Thứ hai, nông nghiệp phát triển chưa bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường. Giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp còn khá thấp. Việt Nam xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp sang hầu hết các thị trường trên thế giới nhưng chủ yếu vẫn là xuất sản phẩm thô, mức độ chế biến còn rất thấp. Trong khi đó, Việt Nam phải nhập khẩu số lượng lớn vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như thuốc trừ sâu, phân bón, thức ăn chăn nuôi, công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp chưa phát triển, vật tư trang thiết bị, máy móc chưa đáp ứng yêu cầu. Sự chuyển dịch lao động và đào tạo nghề trong nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Sự tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng còn hạn chế. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp có xu hướng chậm lại, nông nghiệp chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, phổ biến là kinh tế hộ gia đình, năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp nhìn chung còn thấp. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, đời sống của người dân, đời sống người dân nông thôn còn nhiều khó khăn, đặc biệt vùng sâu vùng xa. Ô nhiễm môi trường, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, tác động rất mạnh đến nước ta. Thực trạng những thay đổi trong nếp sống, môi trường văn hoá ở nông thôn hiện nay đặt ra yêu cầu việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc. Vấn đề an ninh trật tự ở một số vùng nông thôn còn phức tạp…
Thứ ba, về vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đã nêu rõ: “Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Tuy nhiên nhận thức và triển khai quan điểm này còn hạn chế. Việc đầu tư phát triển những ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt những ngành công nghiệp bảo quản, chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm trong chuỗi giá trị. Trong bối cảnh mới, dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư sự phát triển những ngành công nghiệp mới phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp cả sản xuất, chế biến và tiêu thụ là hết sức cần thiết. Vì vậy, cần phải làm rõ nội hàm và sự tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nói chung, đối với nông nghiệp nói riêng.
Trên thực tế, chủ trương, chính sách của Đảng đối với công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn được được quan tâm từ khá sớm, tuy nhiên, chính sách đi vào cuộc sống còn hạn chế. Ngay từ Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (3/2002) Đảng đã ra nghị quyết chuyên đề “Về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Nghị quyết đã đề cập tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn một cách toàn diện, khẳng định công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là “xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại; nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là” chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá điện khí hoá, thuỷ lợi hoá; ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường” và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá ở nông thôn.
Tóm lại, vấn đề công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nội dung rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông dân, nông thôn, có ý nghĩa chiến lược hàng đầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Trong bối cảnh mới, đặc biệt dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biến đổi khí hậu hiện nay, vấn đề công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông dân, nông thôn càng quan trọng nhằm đảm bảo đất nước phát triển nhanh và bền vững. Do vậy, ngoài việc cần phải có chính sách đầy đủ, đồng bộ, việc xác định những nội dung mới, yêu cầu mới, những ngành nghề và công nghệ cần ưu tiên cho công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới cũng cần phải tập trung làm rõ.
Thứ tư, việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và tham gia chuỗi giá trị còn nhiều hạn chế. Trong những năm vừa qua, cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển dịch khá tích cực cả ở khía cạnh trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng như giữa ngành nông nghiệp với các ngành trong nền kinh tế. Cụ thể, tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm so với công nghiệp và dịch vụ và trong nội bộ ngành cơ cấu được phát triển hợp lý hơn giữa trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu vẫn còn chậm, đặc biệt, phát triển công nghiệp chế biến, nhất là việc áp dụng khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế vì vậy, nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, đầu tư cho nông nghiệp còn thấp, chênh lệch giữa đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn với các lĩnh vực khác còn khá cao, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong giai đoạn tới rõ ràng cần phải có chính sách để tăng cường hơn nữa đầu tư vào lĩnh vực này, đồng thời, cần làm rõ những nội dung mới về phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại và chính sách cụ thể.
Thứ sáu, vấn đề phát triển văn hoá xã hội nông thôn dưới tác động của công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Cần phân tích sâu sắc sự thay đổi cơ cấu xã hội nông thôn, những xu hướng biến đổi văn hóa, lối sống của cư dân nông thôn trước bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có chính sách phát triển phù hợp.
Thứ bảy, vấn đề phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng cần có nhận thức lý luận rõ ràng, đặc biệt là tác động hai mặt của nó. Kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế là yêu cầu phát triển chung của đất nước, trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần phải vận dụng triệt để cơ chế này, khắc chế mặt trái như sự lệ thuộc bị động vào thị trường nước ngoài và để đời sống của cư dân nông thôn ngày càng được nâng cao, phát triển lành mạnh, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống.
Thứ tám, vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Nhìn chung phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn chưa đáp ứng được yêu cầu, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt vùng sâu, vùng xa còn khá lớn.
NHỮNG GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TRONG THỜI GIAN TỚI
Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030 và tầm nhìn đến 2045 như trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đặt ra, phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp nông dân, nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Về quan điểm phát triển, trước hết, tiếp tục khẳng định rõ vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải trong tính tổng thể, hệ thống, quan hệ hữu cơ với nhau. Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là ưu tiên, là mặt trận hàng đầu trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh mới cần phải tận dụng các cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, phát triển kinh tế số trong nông nghiệp, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm tạo ra sự phát triển đột phá về năng suất, chất lượng và bền vững. Thứ ba, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững chắc, dân chủ, lành mạnh. Phát triển hài hoà đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người nông dân, trên cơ sở không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn.
Theo đó, tập trung vào các giải pháp chủ yếu như sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vị trí, vai trò của phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh mới. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển phát triển, nông dân chiếm tỷ trọng nhiều hay ít, đóng góp của khu vực nông nghiệp vào GDP cao hay thấp thì đều đặc biệt coi trọng vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề có tính tổng thể cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, là cơ sở quan trọng cho sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam là nước nông nghiệp, việc cụ thể hoá quan điểm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định phát triển của đất nước, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ của tổ quốc. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh mới. Vận dụng đầy đủ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại, hội nhập quốc tế. Trước hết cần rà soát các chính sách hiện có và bổ sung chính sách mới để khơi thông những điểm nghẽn, đang cản trở sự phát triển của lĩnh vực này, nâng cao chất lượng thể chế phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển trong bối cảnh mới. Chú ý có những cơ chế chính sách đảm bảo tính đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo khung khổ pháp lý cho việc khuyến khích phát triển những ngành nghề mới, ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao, thúc đẩy việc tham gia có hiệu quả vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Có cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên đầu tư công phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cuối cùng là cần có cơ chế chính sách cụ thể, giải quyết những điểm nghẽn về cơ chế, chính sách liên quan đến đất đai để đảm bảo phát triển nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiệu quả cao.
Ba là, có các giải pháp chính sách đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh và tham gia tích cực, có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu rõ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, bảo quản với chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quẩn xuất nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời, phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản cả trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ, phát triển đánh bắt đại dương. Thực hiện đồng bộ giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước và làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
Bốn là, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh mới. Trước hết, ưu tiên hoàn thiên hệ thống hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng công nghệ để phát triển kinh tế số, ứng dụng các thành tựu khoa học mới vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; kết nối nông thôn với đô thị; tiếp tục đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nâng cao, xây dựng đời sống văn hoá, nông thôn mới kiểu mẫu và bảo vệ môi trường sinh thái.
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả; đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác
Năm là, phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp sinh thái, nông dân hiện đại và nông thôn văn minh. Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao, nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng và quản trị ngành; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp. Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.
Sáu là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, phát huy dân chủ, nâng cao vị trí, vai trò chủ thể của người nông dân./.
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
-------------------------------------------------------
(1) (2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.61-62; 22; 22-23; 123.