1 - Một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay
Trong 22 năm qua, kể từ khi đổi mới đường lối kinh tế, nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào tăng quy mô vốn, tăng khai thác tài nguyên đất đai, khoáng sản và giá lao động rẻ, chưa chú trọng tăng trưởng theo chiều sâu.
Trong những năm 1998 - 2002, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,2%/năm, nhưng yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp 1,4%; trong những năm 2003 - 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,89%/năm, nhưng yếu tố năng suất tổng hợp cũng chỉ đóng góp 2,07%. Sở dĩ như vậy là do chất lượng nguồn lao động của nước ta thấp; máy móc, thiết bị và công nghệ lạc hậu; năng lực tổ chức, quản lý còn nhiều mặt yếu kém.
Có thể nói, mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng của nước ta đến nay đã hết “dư địa”. Nếu chúng ta tiếp tục tăng trưởng theo cách này thì sẽ không phù hợp và rơi vào cái bẫy của sự phát triển không bền vững. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần tranh thủ cơ hội do khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới tạo ra. Khủng hoảng kinh tế thế giới xuất phát từ các nước phát triển và trầm trọng nhất cũng ở những nước này, khiến họ phải bán thiết bị và chuyển giao cả công nghệ tiên tiến. Nước ta có thể và cần phải huy động tối đa nội lực, nhất là nguồn lực tài chính còn tiềm tàng trong nền kinh tế để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ công nghệ nguồn với giá thấp, đẩy mạnh đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... nhằm đổi mới cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, chuyển mạnh nền kinh tế sang phát triển theo chiều sâu.
Mặt khác, mặc dù đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế trong những năm qua, nhưng trước những tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã bị suy giảm nghiêm trọng: quý I năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế còn đạt mức 7,49% thì đến quý IV giảm xuống còn 5,65%, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân cả năm 2008 chỉ đạt 6,2%, trong khi mục tiêu đề ra từ đầu năm là 8,5% - 9%. Sang năm 2009, mức suy giảm còn lớn hơn, quý I năm 2009 chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 3,1%, nghĩa là bằng 42% so với tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng kỳ năm 2008. Nếu không có những giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn suy giảm kinh tế và phục hồi đà tăng trưởng thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2009 khó có thể đạt được mục tiêu đề ra và do đó nhiều hệ lụy tiêu cực khác về an sinh xã hội sẽ nảy sinh, gây mất ổn định kinh tế - xã hội cùng nhiều hậu quả khó lường.
- Hiện trạng mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta là tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ để đẩy mạnh xuất khẩu thô. Nhưng đến nay những yếu tố đó đã bị khai thác tới đỉnh điểm; xuất khẩu của nước ta đã đạt tới 70% GDP và nhập khẩu chiếm tới 90% GDP, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 160% GDP. Do đó, tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với tăng trưởng kinh tế của nước ta vừa rộng, vừa sâu với những diễn biến khó lường cả trước mắt và trong tương lai khi nền kinh tế thế giới hồi phục đà tăng trưởng, nhất là những biến động về giá cả của thị trường thế giới và khuynh hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng bằng rất nhiều thủ đoạn khó tiên liệu.
- Nguồn thu ngân sách nhà nước vốn đã nhỏ bé lại đang bị thu hẹp do suy giảm tăng trưởng kinh tế và việc giảm thuế để góp phần thực hiện chính sách tài khóa kích cầu. Trong khi đó, nhu cầu chi ngân sách nhà nước cho hỗ trợ, kích cầu tiêu dùng, đầu tư phát triển, bảo đảm an ninh quốc phòng và an sinh xã hội đều đòi hỏi phải tăng cao. Do đó, cân đối thu chi ngân sách nhà nước rất căng thẳng và khả năng tăng chi ngân sách nhà nước cho kích cầu ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ rất hạn chế.
- Lạm phát cao ở nước ta tuy đã được khắc phục từ những tháng cuối năm 2008, nhưng với tổng lượng tiền đã và sẽ đưa vào lưu thông như Chính phủ công bố 145 ngàn tỉ đồng (tương đương 8 tỉ USD và gần bằng 10% GDP) để hỗ trợ, bù lãi suất và phần lớn dành cho kích cầu cùng những biện pháp khác về an sinh xã hội,... nếu không được quản lý tốt, bảo đảm thực hiện kích cầu có hiệu quả, sẽ gây tác động lớn, làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) gia tăng vượt khỏi tầm kiểm soát thì lạm phát cao sẽ xuất hiện trở lại, khi nền kinh tế phục hồi đà tăng trưởng. Sự gia tăng chỉ số CPI trong những tháng gần đây làm nảy sinh tâm lý lo lắng về nguy cơ tái lạm phát cao đang tác động, làm gia tăng xu hướng mua vàng, đô-la,... để cất trữ hoặc đầu cơ kiếm lời, khiến cho việc huy động nguồn lực tài chính tiềm tàng trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển để thu hút lao động, giải quyết việc làm gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
- Ngân sách nhà nước, cán cân vãng lai của nước ta bị thâm hụt lớn và đang trong xu hướng gia tăng, gây nhiều khó khăn cho việc bảo đảm sự lành mạnh các cân đối vĩ mô của nền kinh tế; năng lực khoa học - công nghệ, năng lực tổ chức quản lý kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đều thấp và còn nhiều bất cập so với yêu cầu. Do đó, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế vốn đã thấp lại chậm được cải thiện, gây nhiều khó khăn cho việc mở rộng, chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy hồi phục đà tăng trưởng kinh tế.
2 - Những quan điểm cơ bản cần quán triệt trong việc ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế ở nước ta
- Nỗ lực ngăn chặn suy giảm nhằm sớm phục hồi đà tăng trưởng kinh tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và của toàn dân.
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, trong điều kiện quy mô GDP nhỏ bé, nhưng quy mô dân số lại lớn như nước ta, phải có mức tăng trưởng kinh tế tối thiểu 4%/năm mới đủ bảo đảm mức sống bình thường cho 1% dân số tăng thêm. Thế nhưng, mức tăng dân số bình quân của nước ta hiện nay còn trên 1,3%/năm. Do đó, nếu để tăng trưởng kinh tế giảm xuống dưới 5% sẽ làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập giảm thấp, đời sống sẽ rất khó khăn,... dẫn tới những hậu quả khôn lường cho toàn xã hội. Vì vậy, mọi ngành, mọi cấp, mọi cá nhân phải cùng nhau nỗ lực phấn đấu ngăn chặn suy giảm nhằm sớm phục hồi đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, mới mong có triển vọng tốt đẹp.
- Các giải pháp ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc của kinh tế học, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế đang hoạt động trong điều kiện cụ thể của nước ta và phải xuất phát từ lợi ích của sự phát triển đất nước, không theo sự chi phối của bất kỳ nhóm lợi ích nào và không mang tính chất đối phó tức thời của những yêu cầu chính trị ngắn hạn. Nếu không quán triệt quan điểm này thì các giải pháp đưa ra và cách thức tổ chức, chỉ đạo thực thi sẽ thiếu tính cơ bản, thiếu sự cân nhắc cẩn trọng, khó tạo được sự đồng tâm hợp lực cao của mọi ngành, mọi cấp và của toàn dân trong triển khai thực hiện.
- Các giải pháp ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế của nước ta phải có tác dụng tăng cầu có khả năng thanh toán cho tương xứng với khả năng khai thác những lợi thế, tận dụng năng lực sản xuất hiện có của nước ta, đồng thời phải có tác dụng góp phần gia tăng năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Sở dĩ như vậy là do nền kinh tế nước ta còn nhiều lợi thế chưa được khai thác, phát huy tốt và nhiều năng lực sản xuất hiện có trên nhiều lĩnh vực chưa được tận dụng. Nguyên nhân cơ bản của tình hình đó là do nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường nội địa và năng lực sản xuất cùng sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta đều thấp. Do đó, các giải pháp được lựa chọn phải có tác dụng tăng cầu có khả năng thanh toán để mở rộng dung lượng thị trường nội địa nhằm kịp thời ngăn chặn suy giảm kinh tế và tạo động lực cho việc phục hồi tăng trưởng kinh tế cao trong tương lai gần.
- Ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam phải được thực hiện bằng một hệ thống các giải pháp đồng bộ, dựa trên một khoản chi ngân sách nhà nước đủ lớn “kích cầu” kịp thời, đúng đối tượng, đúng mục đích, có hiệu quả, trong một khoảng thời gian thích hợp để không dẫn tới tái lạm phát cao, giảm thiểu sự “rò rỉ” ra hàng tiêu dùng nhập khẩu và phải có tác dụng góp phần gia tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong dài hạn. Bởi suy giảm kinh tế ở nước ta chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng nội địa có khả năng thanh toán rất thấp, dưới tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới làm cho cầu có khả năng thanh toán trong nước và cầu về xuất khẩu đều bị thu hẹp, nên sản xuất ngày càng gặp nhiều khó khăn, nhất là về thị trường tiêu thụ, dẫn tới suy giảm kinh tế nghiêm trọng.
Nguyên nhân của tình trạng này còn do năng lực sản xuất, nhất là cơ sở vật chất - kỹ thuật cũng như chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập và năng lực cạnh tranh thấp. Do đó, kích cầu để ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam phải vừa kích cầu tiêu dùng, vừa phải kích cầu thông qua tăng đầu tư, nhất là đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn để từng bước khắc phục nguyên nhân cội rễ là sự yếu kém năng lực sản xuất, dẫn tới cầu nội địa và sức cạnh tranh thấp.
3 - Những giải pháp chủ yếu cần thực thi để ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế ở nước ta
Tiến hành mạnh mẽ, sâu rộng, có chất lượng các hoạt động tuyên truyền giáo dục.
Thực hiện gói kích cầu của Chính phủ trong bối cảnh của nước ta hiện nay là rất cấp thiết và rất phức tạp. Còn có những cách hiểu khác nhau về kích cầu, dẫn tới chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận và quyết tâm cao trong phương thức ứng xử và các giải pháp triển khai thực hiện gói kích cầu. Thêm vào đó, công tác tuyên truyền, giáo dục cũng còn hạn chế, phiến diện, chưa tạo được cơ sở nhận thức cho việc giữ vững lòng tin và sự tham gia tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị và của nhân dân. Vì thế, muốn tạo được tổng hợp lực cho việc thực hiện gói kích cầu của Chính phủ đạt mục tiêu và hiệu quả cao, cần tiến hành mạnh mẽ, sâu rộng, có chất lượng các hoạt động tuyên truyền giáo dục, làm cho cả hệ thống chính trị, mọi ngành, mọi cấp, mọi người đều nhận thức rõ tính cấp thiết, mục tiêu, đối tượng, phạm vi, thời hạn, các nguyên tắc và hệ thống các giải pháp thực hiện gói kích cầu 145 ngàn tỉ đồng của Chính phủ trong bối cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay.
Phối hợp hài hòa, bảo đảm tính hiệu quả giữa chính sách tiền tệ - tín dụng và quản lý tỷ giá với chính sách tài khóa trong triển khai thực hiện.
Các gói kích cầu với tổng lượng 145 ngàn tỉ đồng của Chính phủ phải được đầu tư một cách kịp thời, bám sát mục tiêu, đúng đối tượng, trong một khoảng thời gian thích hợp. Chính sách tiền tệ - tín dụng thông qua khoản kích cầu hỗ trợ, bù lãi suất, đưa tiền vào lưu thông và giảm lãi suất để mở rộng tín dụng sẽ tác động tích cực kích thích tiêu dùng của dân cư, nhất là những người nghèo và đầu tư của những doanh nghiệp có thị trường đầu ra, nhưng đang bị thiếu vốn; giảm lãi suất cũng làm cho đồng tiền Việt Nam trở nên rẻ hơn, kết hợp với sự quản lý tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt của Chính phủ sẽ tạo thuận lợi hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Chính sách tài khóa với việc tăng thuế nhập khẩu tới giới hạn tối đa theo cam kết gia nhập WTO đối với hàng tiêu dùng trong nước có nhiều khả năng sản xuất để đáp ứng; giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, thuế VAT đối với những mặt hàng do doanh nghiệp trong nước sản xuất; thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân từ ngày 1-7-2009.
Bên cạnh đó, nên tạm hoãn gia tăng học phí thêm một thời gian và thông qua các gói kích cầu để trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, nâng lương cho cán bộ, công nhân viên, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; tăng chi đầu tư công của Chính phủ cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, phát triển thêm nhiều doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp thu gom, chế biến rác thải nhằm nâng cao năng lực sản xuất, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường và cải thiện đời sống cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trước hết, cần tập trung ưu tiên đầu tư cho 61 huyện nghèo và những vùng còn gặp nhiều khó khăn, vùng nông nghiệp trọng điểm của quốc gia. Đặc biệt là đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các vùng này và chuẩn bị nguồn lực lao động chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xuất khẩu lao động khi kinh tế thế giới phục hồi đà tăng trưởng. Làm được như vậy chẳng những sẽ góp phần to lớn làm tăng tổng cầu để ngăn chặn suy giảm kinh tế trong ngắn hạn mà còn tác động tích cực góp phần nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, hồi phục đà tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, bền vững của nước ta trong dài hạn.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm trợ giúp kịp thời, có hiệu quả cho những nhóm dân cư dễ bị tổn thương trước những tác động tiêu cực làm suy giảm kinh tế.
Đặc biệt, phải dành một khoản chi hợp lý trong gói kích cầu để sớm xây dựng được hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, kịp thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tối cần thiết cho hàng chục ngàn lao động nước ta đang bị thất nghiệp do suy giảm kinh tế gây ra. Hệ thống này có vai trò và tác dụng to lớn góp phần hình thành nên một cơ chế kích cầu tự động. Nhưng hệ thống này ở nước ta còn chưa phát triển, do Luật Bảo hiểm mới bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2009 này. Vì thế, các khoản chi trả bảo hiểm thất nghiệp sớm nhất nếu có cũng phải sang năm 2010 mới được thực hiện, khi mà cả doanh nghiệp, người lao động và Chính phủ, mỗi bên đã đóng góp khoản phí bằng 1% tiền lương được 12 tháng trở lên. Do cơ chế điều chỉnh của hệ thống bảo hiểm thất nghiệp chưa có, nên không phát huy được tác dụng trong bối cảnh suy giảm kinh tế ở nước ta hiện nay, khiến cho cuộc sống của hàng chục ngàn người lao động bị thất nghiệp và gia đình họ đang gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong gói kích cầu 145 ngàn tỉ đồng của Chính phủ cần dành một khoản hợp lý như là khoản ứng trước 1% đóng góp của Chính phủ vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp để trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho những công nhân bị mất việc làm.
Theo một số nghiên cứu khoa học, kết quả của 1 đồng kích cầu thông qua trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa gấp 1,7 lần. Ngoài ra, cũng cần dành thêm một khoản để trợ cấp cho những người lao động chưa có việc làm, đang tích cực tìm và khao khát có việc làm, nhưng chưa thể tìm được việc làm trong bối cảnh suy giảm kinh tế còn tiếp diễn bằng cách thu hút họ vào các trung tâm đào tạo nghề có sự trợ giúp của Nhà nước.
Sử dụng một phần đủ mức cần thiết, hợp lý trong gói kích cầu để đầu tư hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong các ngành sản xuất những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế thế giới và suy giảm kinh tế trong nước đang buộc người dân phải cắt giảm chi tiêu, nhưng đối với những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu thì ai cũng cần. Chính vì vậy mà sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản của nước ta vẫn duy trì được đà tăng trưởng khá ổn định.
Các doanh nghiệp dệt may, da giầy và sản xuất những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác đang từng bước phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng. Tuy vậy, hiện trạng năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này ở nước ta còn thấp do trang bị thiếu đồng bộ, máy móc, thiết bị, công nghệ phần lớn đã lạc hậu, chất lượng nguồn lực lao động còn hạn chế, bất cập. Do đó, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, năng lực tổ chức quản lý và quản trị kinh doanh đều còn thấp, chi phí giá thành sản phẩm cao, nên khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu hạn chế. Vì vậy, Chính phủ cần dành một phần đủ lớn, hợp lý trong gói kích cầu để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng thiết yếu, giúp họ có thêm điều kiện đầu tư cấu trúc lại doanh nghiệp theo hướng hợp lý hóa, đồng bộ hóa sản xuất; đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hỗ trợ cho những công nhân bị thất nghiệp chưa có trình độ tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, khoản thu nhập hằng tháng bằng 60% mức tiền lương bình quân của doanh nghiệp để học tập nâng cao trình độ trong thời hạn 6 tháng. Sau khi đã được đào tạo, có trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, lực lượng lao động này sẽ thay thế cho lực lượng lao động tại nghiệp để lần lượt đưa những người lao động đang tại nghiệp đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao theo yêu cầu phát triển hiện đại của doanh nghiệp. Triển khai gói kích cầu đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu theo những trọng tâm, trọng điểm như vậy sẽ nâng cao được năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, vừa có tác dụng góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế trong ngắn hạn, vừa tích cực góp phần hồi phục tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, bền vững trong dài hạn.
Công khai hóa, minh bạch hóa quy mô, phương thức, đối tượng, mục tiêu, cơ chế, chính sách về các gói kích cầu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hợp tác xã, các hộ nông dân.
Công khai hóa việc phân giao trách nhiệm cụ thể cho các cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cùng với các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, các chi nhánh ngân hàng phát triển và ngân hàng chính sách xã hội, các tổ chức liên hiệp hợp tác xã, các quỹ tín dụng nhân dân trên từng địa bàn, cùng phối hợp triển khai thực hiện các gói kích cầu và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các gói kích cầu đó, bảo đảm tính kịp thời, đúng mục tiêu, đúng đối tượng,... để sớm phát huy tác dụng và đem lại hiệu quả kích cầu cao.
Trên thực tế hiện nay tổng lượng gói kích cầu 145 ngàn tỉ đồng đã được Chính phủ công bố, nhưng quy mô các gói kích cầu dành cho nhóm đối tượng cụ thể, phương thức, mục tiêu, cơ chế, chính sách trong thực hiện kích cầu đối với từng nhóm đối tượng đều chưa đủ rõ. Đặc biệt là sự phân giao trách nhiệm cho các cấp, các ngành, các tổ chức trên từng địa bàn trong phối hợp triển khai thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đều chưa rõ ràng, cụ thể, minh bạch. Do đó, việc triển khai thực hiện chậm trễ, gặp nhiều khó khăn, không kịp thời đến với từng đối tượng đang cần được hỗ trợ. Vì vậy, cho đến cuối tháng 5-2009, dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới đạt 300 tỉ đồng, còn cho vay kích cầu hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn, kết quả đạt được rất khiêm tốn, nông dân và thợ thủ công đang “đói” vốn, nhưng rất khó tiếp cận với nguồn vốn kích cầu của Chính phủ.
Để khắc phục thực trạng trên, cần phải kịp thời có cơ chế, chính sách cho vay phù hợp với đối tượng này và cần phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ, đầy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhất là cấp ủy và chính quyền cơ sở. Đồng thời phải phát huy tốt vai trò của các hợp tác xã, các quỹ tín dụng nhân dân trong việc làm đại lý vệ tinh cho các chi nhánh ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn trên từng địa bàn cụ thể. Với sự vào cuộc đồng bộ, có tính cộng đồng và trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị và việc cho vay đối với nông dân, thợ thủ công được thực hiện chủ yếu theo phương thức tín chấp dựa trên kế hoạch hay dự án phát triển sản xuất mang tính khả thi, theo trình tự thủ tục đơn giản, chắc chắn sẽ đem lại những kết quả như mong muốn trong việc thực hiện kích cầu đối với nhóm đối tượng này, góp phần to lớn ngăn chặn suy giảm nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế ở nước ta./.
GS.TS Hoàng Ngọc Hòa
(Theo Tạp chí Cộng sản điện tử)