Để thực hiện tốt mục tiêu đó, cần tập trung nỗ lực giải quyết điểm nghẽn về thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và sản xuất- kinh doanh; phát triển kinh tế tri thức; nâng cao tỷ lệ đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp; thúc đẩy tăng trưởng xanh trong quá trình phát triển.
Yêu cầu tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế nước ta đã phát triển, đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng. Mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, với việc thu hút vốn đầu tư (nước ngoài và trong nước), phát huy lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, khai thác tối đa tài nguyên thiên nhiên, khơi dậy mọi tiềm năng của đất nước vào sản xuất - kinh doanh, đã đem lại những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức gần 7% những năm qua. Riêng giai đoạn 2011-2015, mặc dù kinh tế thế giới diễn biến bất lợi, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều khó khăn, tác động trực tiếp đến kinh tế nước ta nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mức trung bình trên 5,9%/năm (Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 6,24%; năm 2012: 5,25%; năm 2013: 5,42%; năm 2014: 5,98% và năm 2015: 6,68%. Nếu tính bình quân trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2013 thì tăng trưởng GDP của nước ta là 4,6%, trong khi của Trung Quốc là 8,5%; In-đô-nê-xia: 4,5%; Phi-líp-pin: 3,3%; Thái Lan: 2,7%; Ma-lai-xia: 2,6%). Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh, từ khoảng 200 USD năm 1990 lên 1.168 USD năm 2010 và đến năm 2015, quy mô GDP đã đạt 193,4 tỷ USD, thu nhập bình đầu người đạt khoảng 2.109 USD theo giá hiện hành, theo sức mua tương đương khoảng 5.800 USD (1). Mô hình tăng trưởng bước đầu có sự chuyển dịch sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; đã hình thành những mô hình mới và cách làm sáng tạo. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,9% năm 2011 lên 82,6% năm 2015; tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 20,1% năm 2011 còn 17,4% năm 2015. Thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đã có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội cũng như bảo vệ tài nguyên và môi trường. Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế của Việt Nam khá ấn tượng, được cộng đồng quốc tế cũng như người dân ghi nhận, đánh giá cao. Từ tình trạng nước nghèo và kém phát triển, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, gia nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hoàn thành sớm đa số các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng, tuy nhiên, so với tiềm năng và nhất là so với yêu cầu phát triển của giai đoạn hội nhập và cạnh tranh quốc tế, còn phải cải thiện trên nhiều phương diện. Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, lao động trình độ thấp và tài nguyên thiên nhiên mà chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học - công nghệ, lao động có kỹ năng, trình độ cao. Năng suất lao động chậm được cải thiện và hiện thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Nhận thức đầy đủ và xử lý quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu,… thực hiện chưa tốt. Đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế thời gian qua, Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Mô hình tăng trưởng chưa chuyển đổi kịp theo yêu cầu phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đầu vào sản xuất của một số ngành còn lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Sản xuất kinh doanh chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn; hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng còn thấp” (2). Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Do những yếu kém nêu trên nên kinh tế tăng trưởng không ổn định, thiếu vững chắc, chưa mang tính bền vững, rất dễ bị tổn thương do không thể phản ứng kịp thời và thích nghi được trước những thay đổi về thị trường, biến động về tài chính tiền tệ trên thế giới và khu vực, làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên trước hết là do nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế chưa đầy đủ; thể chế hóa và thực hiện còn chậm; chưa có đột phá về thể chế để tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp, người dân. Mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian dài chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng, khai thác triệt để yếu tố gia tăng lượng vốn đầu tư, sử dụng nhiều lao động với kỹ năng, trình độ trung bình và thấp là chủ yếu. Đây là những yếu tố hữu hạn và đã được phát huy trong một thời gian dài, dư địa cho việc tiếp tục khai thác ngày càng hạn hẹp. Chưa có cơ chế, chính sách phát huy các yếu tố khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường trong phát triển.
Như vậy, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng là yêu cầu khách quan. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (3). Đồng thời, xác định mục tiêu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh(4).
Các giải pháp chủ yếu để đổi mới mô hình tăng trưởng
Để thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng cần hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện, trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu, bao gồm: tháo gỡ khó khăn về thể chế, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân; phát triển kinh tế tri thức; thúc đẩy tăng trưởng xanh...
Tháo gỡ khó khăn về thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư sản xuất - kinh doanh
Trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, cần thiết phải chuyển từ nền hành chính quản lý truyền thống sang nền hành chính tạo lập môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân. Phải coi doanh nghiệp, công dân là khách hàng để mỗi cơ quan có trách nhiệm cung ứng những dịch vụ công tốt nhất, có chất lượng và hiệu quả nhất. Chuyển vai trò của Nhà nước từ chủ yếu là cai trị sang vai trò kiến tạo phát triển.
Để tháo gỡ khó khăn về thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp:
- Tập trung hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế kinh tế, liên quan đến sản xuất, kinh doanh theo hướng đồng bộ, minh bạch, rõ ràng; bãi bỏ hoặc đình chỉ áp dụng các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp, trái quy định của pháp luật. Cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh, về quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế, chuyển căn bản sang hậu kiểm. Khắc phục tình trạng nợ đọng trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tình trạng luật đã ban hành và có hiệu lực phải chờ nghị định, nghị định chờ thông tư,…
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp, giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của doanh nghiệp và người dân. Chú trọng cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực như đất đai, cấp phép, thuế, hải quan,… là những lĩnh vực còn nhiều bất cập, gây khó khăn và tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, người dân.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính theo hướng bảo đảm thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm mỗi việc, mỗi lĩnh vực do một cơ quan phụ trách và chịu trách nhiệm, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Công khai hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình,… Giáo dục tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp. Kiên quyết đấu tranh với các hành vi cửa quyền, nhũng nhiễu, thái độ vô cảm, tình trạng tham nhũng trong công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Phát triển chính phủ điện tử, tiến tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến là một nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính; góp phần tăng tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy chính quyền, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức với 4 trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ môi trường được hình thành dựa trên nền tảng của khoa học và công nghệ, phát triển rất nhanh từ những năm cuối của thế kỷ XX, trở thành hiện tượng phổ biến và ngày càng lan rộng cùng với quá trình toàn cầu hoá.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, cần tập trung vào các biện pháp:
Thứ nhất, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo ra những điều kiện và tiền đề cần thiết cho kinh tế tri thức hình thành, trước hết tập trung phát triển nguồn nhân lực đóng góp trực tiếp vào việc làm tăng năng suất lao động, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ thông tin và hạ tầng khoa học và công nghệ.
Phát triển nguồn nhân lực, tập trung cho phát triển nguồn nhân lực đóng góp vào tăng năng suất lao động nói chung và các yếu tố năng suất tổng hợp nói riêng, đó là nhân lực hoạch định chính sách; nhân lực khoa học và công nghệ; nhân lực quản trị và người lao động sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ.
Thứ hai, tập trung tiềm lực khoa học và công nghệ đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo ra sản phẩm hàng hoá mới, dịch vụ mới, phương pháp tổ chức sản xuất, quản lý mới hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phương pháp tổ chức quản lý tiến tiến, hiệu quả.
Tiếp nhận, chuyển giao công nghệ để từng bước nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; chú trọng công nghệ sản xuất sạch, ít chất thải nhằm giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm đưa dần hàm lượng tri thức và hàm lượng công nghệ, thông tin vào giá trị của sản phẩm, giảm dần tỷ trọng giá trị của nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng truyền thống. Phát triển và nhân rộng công nghệ mới bằng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận tới các sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ sử dụng các công nghệ mới. Nâng dần số lượng doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm mới có thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và khu vực.
Thực hiện ứng dụng rộng rãi công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp để tạo các giống, cây, con mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc chế biến, bảo quản các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản để giảm tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Xây dựng doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo nền móng để hình thành nền nông nghiệp tiên tiến, thân thiện với môi trường.
Có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực khoa học và công nghệ trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, xây dựng và hình thành mô hình xã hội học tập, tạo môi trường học tập suốt đời, phát triển mô hình đào tạo mở và đào tạo từ xa, tạo cơ hội cho tất cả mọi người có điều kiện học tập để nâng cao trình độ học vấn và cập nhật kiến thức.
Xây dựng xã hội học tập phải lấy gia đình, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nhà nước làm hạt nhân, trên cơ sở đó nhân rộng ra cộng đồng, xây dựng mô hình làng học tập, tổ dân phố học tập... trên địa bàn các xã, phường, thị trấn.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, xây dựng mô hình xã hội học tập là cơ sở hình thành nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao cho nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức.
Thúc đẩy tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là định hướng thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng tiêu thụ và sản xuất bền vững, nhằm đảm bảo nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những nguồn lực và dịch vụ sinh thái mà đời sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ này cũng như cho những thế hệ mai sau. Ngân hàng Thế giới (World Bank) định nghĩa “Tăng trưởng xanh là quá trình tăng trưởng sử dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn và tăng cường khả năng chống chịu mà không làm chậm quá trình này.”
Để thúc đẩy tiến độ chuyển dịch sang nền kinh tế xanh, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức trong các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân về tăng trưởng xanh trong xu thế hội nhập hiện nay; đồng thời có chiến lược rõ ràng về vị thế của kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế xanh toàn cầu với những tiềm năng, lợi thế và cả những thách thức. Định hướng đó phải được thể chế hóa trong cơ chế, chính sách, làm căn cứ để thu hút, khuyến khích đầu tư cả của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, rà soát cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, những ngành nghề phù hợp với nền kinh tế xanh trong điều kiện phát triển của Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện; hạn chế, tiến tới thu hẹp những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế thâm dụng nhiều tài nguyên, phát thải nhiều chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Cùng với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, cũng cần rà soát cơ cấu tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải, nơi tiêu thụ một lượng lớn năng lượng hóa thạch, phát thải nhiều khí độc hại gây ô nhiễm môi trường. Cùng với việc rà soát cơ cấu ngành nghề, cơ cấu tiêu dùng của nền kinh tế, từng bước thay đổi quy trình, phương thức sản xuất truyền thống, nhất là trong nông nghiệp, triển khai các mô hình nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ,…
Thứ ba, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính cũng như kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ cộng đồng quốc tế cho tăng trưởng xanh, nhất là các chương trình, dự án hỗ trợ của các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc và nguồn vốn ODA của các nước phát triển cho lĩnh vực này. Tiếp tục mở rộng, phát triển các ý tưởng và tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức, phong trào quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh.
Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, đối với đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; đội ngũ doanh nhân, công nhân kỹ thuật về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, tiếp cận sớm những kiến thức xanh và công nghệ sạch của thế giới để triển khai áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp truyền thông phù hợp để hình thành thói quen tiêu dùng xanh; lên án, tẩy chay các sản phẩm, dịch vụ không thân thiện với môi trường; phát huy vai trò của người tiêu dùng trong việc gây áp lực đối với nhà sản xuất, buộc họ phải đổi mới quy trình sản xuất, công nghệ theo hướng xanh hóa, thân thiện với môi trường.
Thứ năm, phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nhân, hiệp hội ngành nghề trong việc tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc tiếp thu sáng kiến, công nghệ, kinh nghiệm quốc tế về sản xuất xanh; khuyến khích doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong việc thúc đẩy nghiên cứu - chuyển giao; hình thành nguồn quỹ để trao giải, tôn vinh các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh tiêu biểu trong bảo vệ môi trường./.
----------------------------------------------------
Chú thích:
(1), (2), (3), (4), Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng trung ương Đảng, H, 2016, tr. 225, tr. 252, tr. 52, tr. 270, tr.
Nguyễn Đông/TCCS