CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM ĐỂ DOANH NGHIỆP ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Nghị
quyết số 20-NQ/TW, ngày 1/11/2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về "Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” khẳng định, phát triển mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng chiến lược, đổi mới
mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức canh tranh của nền kinh tế. Chuyển mạnh nền
kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa
học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực; cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh; phát triển các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp trên nền tảng ứng
dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ; tham gia có hiệu
quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu(1). Tiếp
tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu và là một đột phá chiến lược, động lực then chốt để phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế(2)…
Đồng
thời, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta cũng nhất quán
khẳng định rõ vai trò của doanh nghiệp là động lực chính của nền kinh
tế - xã hội, yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh, quy mô, hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp theo hướng phát triển bền vững. Điều này đặt ra
yêu cầu các doanh nghiêp cần quan tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên nền
tảng ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của khoa học và công nghệ, tham gia có
hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Ở
góc độ vĩ mô, cần có môi trường để doanh nghiệp và các lực lượng trong
hệ thống chính trị huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm
năng, thế mạnh của mình góp phần phát triển nền kinh tế nhanh và bền
vững. Điều kiện tiên quyết là cần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, bảo
đảm duy trì tăng trưởng hợp lý; đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến
lược, nhất là đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung các nguồn lực phát triển nhanh hơn kết
cấu hạ tầng then chốt, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản
xuất, kinh doanh. Cần chú trọng bảo hộ quyền tài sản, quyền sở hữu trí
tuệ và thực thi các chính sách về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh. Tạo điều kiện thực hiện liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng cường
hợp tác công - tư, hình thành các doanh nghiệp đầu tàu tạo nên chuỗi
giá trị bền vững và chuỗi cung ứng hiệu quả; sửa chữa những thiếu sót,
khiếm khuyết trên thị trường các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường
khoa học và công nghệ… đang được đặt ra ngày càng cấp bách.
Về
phía doanh nghiệp, nỗ lực của chính bản thân cộng đồng doanh nghiệp vẫn
là yếu tố mang tính chất quyết định để có thể nâng cao được năng lực
cạnh tranh và khắc phục những hạn chế do nội lực, trình độ phát triển
hay những yếu tố tác động bên ngoài khác. Các doanh nghiệp cần tập trung
cải thiện năng suất lao động, hội nhập tốt hơn với nền kinh tế quốc tế,
tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững và phát triển lâu dài. Muốn vậy,
doanh nghiệp cần tích cực đầu tư cho nghiên cứu phát triển, nâng cao
năng lực công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề cốt
yếu, quan trọng hàng đầu để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Phát
triển khoa học và công nghệ phải gắn chặt với đổi mới sáng tạo. Theo
đó, cần phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm ứng dụng
công nghệ và phát triển sản phẩm, các trường đại học và viện nghiên cứu
là chủ thể nghiên cứu và phát triển; tạo cơ chế liên kết chặt chẽ, hữu
cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ sở chia sẻ về
trách nhiệm và lợi ích tương hỗ.
Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng cũng lần đầu xác định đầy đủ vai trò của
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với thể chế, chính sách và
vai trò trung tâm của doanh nghiệp, các điều kiện bảo đảm để doanh
nghiệp thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, như
quan điểm về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng
dụng, phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao năng lực hệ thống đổi
mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học
và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu
quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm mục tiêu; tăng cường đầu
tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở
huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân; hỗ
trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu
phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ…(3). Xây
dựng môi trường hoạt động khoa học và công nghệ dân chủ, công khai,
minh bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành
chính hóa trong hoạt động khoa học và công nghệ…
VIỆC ỨNG DỤNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Việc
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt
Nam nói chung và trong cộng đồng doanh nghiệp đã có những bước phát
triển vượt bậc. Kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được ứng dụng
nhanh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn trong các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh và đời sống xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang dựa nhiều vào ứng
dụng khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các cơ quan quản lý đã
từng bước đổi mới tư duy trong quản lý khoa học và công nghệ và đổi
mới sáng tạo theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện
nghiên cứu và trường đại học là chủ thể tập trung nghiên
cứu, khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực
đầu tư cho khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các
doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công
nghệ; phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị; rà soát,
tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia;
thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện
nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy
mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh
doanh; đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng,
bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển, khai thác tài sản trí
tuệ...
Các
cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên
cứu, đổi mới công nghệ đã có những tác động tích cực giúp các doanh
nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ. Hướng mạnh việc gắn nhiệm vụ khoa học và công nghệ với
sản phẩm đầu ra, với thực tiễn và thị trường; kiên trì thực hiện trao
quyền tự chủ tối đa cho các tổ chức khoa học và công nghệ gắn với trách
nhiệm giải trình; khuyến khích doanh nghiệp và khu vực tư nhân thành lập
viện nghiên cứu và doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đã hình thành
các kênh tài chính hỗ trợ viện nghiên cứu, trường đại học và doanh
nghiệp thông qua hệ thống các quỹ quốc gia về khoa học và công nghệ. Đây
là những dấu hiệu cho thấy hiệu quả của việc xã hội hóa trong nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Nhận thức chung của doanh nghiệp và người dân về vai trò của khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo đối
với sản xuất, đời sống có bước chuyển đáng kể. Một bộ phận doanh nghiệp
đã ưu tiên đầu tư, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại vào sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, tạo bước
tiến mới nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năm
2023, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (Global Innovation Index)
của Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so
với năm 2022. Theo Báo cáo GII 2023, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện
thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 2 bậc so với năm 2022, từ vị trí
59 lên 57 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, nguồn nhân
lực và nghiên cứu, cơ sở vật chất, trình độ phát triển của thị trường,
trình độ phát triển của doanh nghiệp). Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 1
bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2
trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo).
Tuy
nhiên, dù Việt Nam đã nỗ lực xây dựng khung pháp lý khuyến khích đổi
mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ, các doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn gặp không ít khó khăn khi thực
hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, khi
đưa các sản phẩm khoa học và công nghệ ra thị trường. Khoa học và công
nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Một bộ phận lớn doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công
nghệ còn hạn chế, kết quả chưa cao. Năm 2023, theo Báo cáo của Tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chi R&D của Việt Nam xếp hạng 66,
không có sự cải thiện so với các năm trước.
Trình độ khoa học và công nghệ của nước
ta nhìn chung còn khoảng cách khá xa so với nhóm đầu khu vực Đông Nam
Á. Bên cạnh một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như
công nghệ thông tin, viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân
hàng…, nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức
trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ,
đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn những bất cập. Sự
chuyển giao công nghệ tiên tiến, có tính cạnh tranh cao từ các doanh
nghiệp FDI còn hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên
cứu, trường đại học còn khiêm tốn.
Chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
chiếm khoảng 1,36% đến 1,52% tổng chi ngân sách nhà nước (chưa kể chi
quốc phòng - an ninh và dự phòng). Tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ bình quân trong các năm gần đây đạt khoảng 1,08% GDP, chưa đạt mục tiêu 2% GDP vào năm 2020...
Đặc
biệt, từ góc độ thể chế, vẫn còn nhiều bất cập là rào cản đối với việc
thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới
sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh. Do đó, Việt Nam cần có nhiều giải
pháp đồng bộ hoàn thiện thể chế huy động tổng lực cả ngân sách và nguồn
lực tư nhân để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh
tế.
Công nhân vận hành dây chuyền sản xuất sợi bằng công nghệ hiện đại. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ỨNG DỤNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Với
việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, tăng trưởng xanh,
phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, thì đổi mới sáng tạo và thúc
đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao,
thân thiện môi trường trở thành động lực quan trọng hàng đầu, đồng thời
cần đặt nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao vào trung tâm
của sự phát triển, tạo thành “tam giác”: Con người - thể chế - công
nghệ.
Tiếp
theo Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 11/5/2022 về “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến
năm 2030”, trong đó đặt ra mục tiêu nâng cao đóng góp của khoa học và
công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế thông qua các hoạt
động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các viện nghiên
cứu và trường đại học, hoạt động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực
quản trị, tổ chức trong doanh nghiệp. Đóng góp của năng suất nhân tố
tổng hợp (TFG) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%. Mục tiêu đến năm
2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và
số doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ
doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư phát triển khoa học
và công nghệ đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp. Chỉ số đổi mới sáng tạo
toàn cầu GII không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng
đầu thế giới…
Để
góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị
quyết Đại hội XIII và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo đến năm 2030, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng
dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, cần tập trung thực hiện một
số giải pháp:
Thứ nhất,
nâng cao nhận thức về tính cấp thiết phải xây dựng và hoàn thiện thể
chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.
Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về thực hiện
chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, trước hết là
việc tạo lập môi trường thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò, trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức trong xây dựng cơ chế quản lý, tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ,
đổi mới sáng tạo; đồng thời phát huy các tiềm năng để đổi mới sáng tạo,
ứng dụng công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực quản lý, thúc đẩy phát
triển bền vững. Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính
sách, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu
tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ. Thực hiện các chương trình thí điểm cơ chế hợp tác phù hợp
cho mục đích nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo, từ đó tập trung
khai thác nguồn lực khác nhau (như hợp tác công - tư, dịch vụ hành chính
công hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ…).
Tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp, bao
gồm cả doanh nghiệp nước ngoài. Sử dụng các chính sách ưu đãi về thuế để
thu hút vốn đầu tư, cả từ trong nước và các nguồn lực nước ngoài đầu tư
phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực công
nghệ cao, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp hỗ trợ…
Thứ hai, đổi
mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Đẩy
mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ, cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ
cuối cùng theo kết quả đầu ra. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ, ứng
dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ
nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong nước và nước
ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên; hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ
các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước.
Xây
dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế hỗ
trợ đổi mới và chuyển giao công nghệ. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy
định việc doanh nghiệp lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ; coi
đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước và là hoạt động
được khuyến khích hỗ trợ ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà
nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu
phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Đồng thời, chú trọng ngăn chặn
có hiệu quả việc nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây nguy hại đến sức
khoẻ con người, tài nguyên, môi trường, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh.
Thứ ba,
đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, đẩy
mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học
và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả
và hiệu quả hoạt động. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công
nghệ với doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng
dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực gắn với yêu cầu vận dụng trong
thực tiễn phát triển sản xuất, kinh doanh và nhu cầu thị trường. Tăng
cường thực hiện cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm
vụ khoa học và công nghệ. Giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan
chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời có cơ chế phân chia
hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Tạo điều kiện
để các tổ chức khoa học và công nghệ được vay vốn từ các quỹ hoặc các tổ
chức tín dụng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hoạt động nghiên cứu và
phát triển khoa học và công nghệ.
Thứ tư,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả thể chế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
thông qua thực thi các Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa… Xây dựng các mô hình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát
triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo mối liên
hệ theo chuỗi cung ứng. Tăng cường hiệu quả các quy định ưu đãi đối với
đối tượng là doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, như
mức ưu đãi đối với kết quả nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ
mới và các sản phẩm, dịch vụ khoa học và công nghệ mới. Tập trung cải
thiện các thể chế liên quan nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh
nghiệp xuất khẩu có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm,
thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển thị trường khoa học và
công nghệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước
vào các dự án nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, từ các doanh
nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các nguồn lực xã hội, đa
dạng các kênh đầu tư, tăng tính liên kết hệ thống để thúc đẩy sự phát
triển của thị trường khoa học và công nghệ. Ngược lại, khi thị trường
khoa học và công nghệ phát triển sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp dễ dàng
đầu tư phát triển khoa học và công nghệ để mở rộng, nâng cao chất lượng
sản xuất, kinh doanh. Điều này cần có sự hoàn thiện các quy định pháp
luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn
kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hỗ trợ hiệu quả cho việc vận
hành thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển mạng lưới các tổ chức
dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn,
đánh giá và định giá công nghệ.
Đầu
tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại các thành phố lớn,
như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… liên thông với hệ thống các
trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố,
kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới để phát
triển thị trường khoa học và công nghệ. Các cơ quan chức năng tạo điều
kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động đổi mới
sáng tạo mở của doanh nghiệp, từ đó tăng khả năng nghiên cứu phát triển,
tăng nguồn cung - cầu và giao dịch cung - cầu phát triển thị trường
khoa học và công nghệ. Đối với các doanh nghiệp, cần lấy đổi mới
công nghệ và chất lượng quản lý làm phương pháp then chốt
để khắc phục khó khăn, vươn lên trở thành chủ thể chính của
hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Để tồn tại và lớn mạnh, các
doanh nghiệp cần hướng mạnh vào thị trường, tích cực nghiên
cứu và phát triển, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến
bộ khoa học và công nghệ hiện đại./.
NGUYỄN THỊ ÁNH
Ban Tuyên giáo Trung ương
_______________________
(1) (2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, t.I, tr.120-121, 220, 140, 141.
(Nguồn: TC Cộng sản)