Theo đó, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đánh giá, trong giai đoạn phát triển mới hiện nay và sắp tới, tình hình thế giới và khu vực dự báo sẽ còn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp; đặc biệt, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc, toàn diện tới Việt Nam. Ở trong nước, tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; sự xuống cấp về các giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng tăng. Trên một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định. Tranh chấp biển, đảo, chủ quyền lãnh thổ, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng... là những nguy cơ lớn luôn có thể xảy ra. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường các hoạt động "diễn biến hoà bình", "phi chính trị hoá" lực lượng vũ trang với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng tinh vi, công khai và trực diện hơn.
Trước bối cảnh đó, tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất ban hành Nghị quyết với tên gọi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân đội nhân dân Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, quán triệt tinh thần của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII là luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; dựa vào dân, lấy "dân là gốc", khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hoá, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng "thế trận lòng dân", lấy "yên dân" là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai,nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Quân đội nhân dân Việt Nam cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cả hệ thống chính trị và toàn dân nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của đất nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải toàn diện, song cần tập trung cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, phương thức, nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp của các chiến lược làm cơ sở để vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Trên cơ sở nhận thức đúng, làm cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và toàn dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây chính là thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,… Từ đó, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trách nhiệm đối với sự nghiệp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ địa bàn và chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, phát huy sức mạnh của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình trong hệ thống học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội cùng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương; coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, làm cơ sở để đội ngũ này tuyên truyền, giáo dục cho toàn dân. Cùng với đó, cần tích cực đấu tranh với những tư tưởng, nhận thức lệch lạc, coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là tư tưởng cho rằng trong thời bình không cần xây dựng lực lượng vũ trang, Quân đội, nền quốc phòng toàn dân, gây tốn kém cho nền kinh tế đất nước,… dẫn đến mất cảnh giác, mắc mưu các thế lực thù địch, phản động.
Thứ ba,tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, cấp ủy, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nhằm đạt được mục tiêu đề ra là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Cần chú trọng quán triệt, vận dụng đúng mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá và tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc, phương thức tiến hành các chiến lược vào nghị quyết lãnh đạo nhiệm kỳ và hằng năm bảo đảm phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị mình làm cơ sở để tổ chức thực hiện. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị, Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22/02/2019 của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ; Luật Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật Nghĩa vụ quân sự...
Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về quốc phòng, bảo đảm các hoạt động quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đúng phương hướng chính trị của đất nước, theo tư duy, nhận thức mới của Đảng, đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và đạt hiệu quả thiết thực. Tiếp tục hoàn thiện và tổ chức thực hiện có chiều sâu các cơ chế, quy chế, thông tư, văn bản, hướng dẫn, quy định dưới luật, nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong thực tiễn, bảo đảm cho nội dung của các chiến lược đi vào cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn, Tổ quốc trong mọi tình huống.
Thứ tư, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội nhân dân trong tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp. Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhất là việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông, cùng sự chống phá quyết liệt của cả các thế lực thù địch, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là Quân đội nhân dân. Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ, Quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc nội dung các chiến lược, phối hợp với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, trong nước, dự báo chính xác xu hướng vận động, phát triển của tình hình, tham mưu cho Đảng, Nhà nước các đối sách, giải pháp chiến lược, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của các chiến lược đề ra; xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Trong đó, tập trung vào những khu vực, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh, nhất là khu vực biên giới, biển, đảo. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng khu vực phòng thủ, xác định các biện pháp giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, toàn quân cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát quyết tâm, phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến chiến đấu, phòng, chống cháy nổ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng xử lý thắng lợi các tình huống.
Toàn quân đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phát hiện, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục tổ chức xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, đảm bảo cho Quân đội ta có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao theo hướng tinh, gọn, mạnh, phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Thứ năm, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới.
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, do vậy, cần chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua tổng kết thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở đó quay trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả thiết thực.
Đối với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Trung ương đã tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương 8 (khóa IX) từ 2003 - 2013 và ban hành Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã nhấn mạnh tới đây, chúng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về vấn đề này. Theo đó, đối với Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự là hai chiến lược mới nên các cơ quan tham mưu chiến lược của Bộ Quốc phòng, nhất là Viện Chiến lược Quốc phòng, Cục Tác chiến, Cục Dân quân tự vệ,... chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong toàn quân, cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho các bộ, ngành, địa phương, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng hằng năm và cả giai đoạn, làm cơ sở để Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ chức tổng kết thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng về các chiến lược ở cấp Trung ương.
Nội dung tổng kết toàn diện, trong đó tập trung vào nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; hoạt động quân sự, quốc phòng; xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; nghệ thuật quân sự; đối tượng, đối tác,.. Trong quá trình thực hiện, chú ý tính toàn diện, sâu sắc, nghiêm túc; đánh giá trung thực, khách quan; chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, làm cơ sở điều chỉnh mục tiêu, yêu cầu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá cho giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
“Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” là kế sách, mưu lược bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”; là kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc với ý Đảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quố Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chiến lược này là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là lực lượng quân đội, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng chiến thắng mọi hình thái chiến tranh trong tình hình mới.
Thượng tá, ThS Nguyễn Chí Khoa
Trưởng Ban Khoa học quân sự, Bộ Tư lệnh 86
Thiếu tá, TS Nguyễn Phùng Nhân
Khoa Chỉ huy tham mưu, Học viện Lục quân