BƯỚC PHÁT TRIỂN VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG TA
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định: Đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc của người dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, việc đề ra mục tiêu kép “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” là một bằng chứng thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng và cần phải được hiện thực hóa thành công.
Việc đề ra mục tiêu kép “Giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” đã được Đảng Cộng sản Việt Nam bước đầu đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996. Báo cáo Chính trị Đại hội VIII nhấn mạnh: Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư(1). Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Báo cáo Chính trị của Đại hội đã xác định: Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội(2).
Trên tinh thần nhìn thẳng và đánh giá đúng sự thật, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã chỉ ra những bất cập của đất nước hiện nay: chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội(3). Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng, đời sống của một bộ phận người dân còn gặp khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã đặt ra mục tiêu: giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng xã hội Đặc biệt là, triển khai đồng bộ các biện pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Đổi mới thực chất cách tiếp cận trong giảm nghèo bằng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, giảm hỗ trợ cho không, khơi dậy ý chí chủ động vươn lên thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với trách nhiệm xã hội(4). Và gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân. Đổi mới cơ chế, huy động phân bổ và đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội, đảm bảo bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động phi chính thức(5).
Như vậy, nếu như trước đây chính sách xóa đói giảm nghèo được đề cập một cách khá chung chung, thì đến Đại hội IX đã xuất hiện các từ khóa: “tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng”, “năng lực sản xuất”, “tự phát triển” đã được cụ thể hóa; đặc biệt đến Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra mục tiêu kép: “Giảm nghèo bền vững gắn liền với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Điều này thể hiện sinh động mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chúng ta hướng tới là một xã hội giàu có.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG GẮN VỚI KHUYẾN KHÍCH LÀM GIÀU THEO PHÁP LUẬT
Trong 35 năm qua, với đường lối, chủ trương, chính sách và các giải pháp đúng đắn, phù hợp, sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Đảng và Nhà nước, sự đồng tâm, đồng sức của cả xã hội và nhân dân, kết hợp các nguồn lực ngày càng tăng của của Nhà nước với các nguồn lực xã hội, công tác giảm giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, được thế giới ghi nhận và ca ngợi như một điển hình sáng. Từ thực hiện xóa đói giảm nghèo theo hướng: “Từ cho người nghèo con cá và cho người nghèo cần câu cá chuyển sang dạy cho người nghèo biết cách nuôi cá”; “từ phương thức giảm nghèo đơn chiều, thiếu bền vững chuyển sang giảm nghèo đa chiều và bền vững”.
Thúc đẩy chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” sẽ thúc đẩy mô hình phân tầng xã hội theo xu hướng tích cực, giảm bất bình đẳng giữa các giai tầng xã hội. Đồng thời, tạo ra nền tảng kinh tế - xã hội để hình thành tầng lớp trung lưu đông đảo, có trách nhiệm xã hội, đóng vai trò là nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã của đất nước trong giai đoạn hiện nay, cũng như từng bước hình thành tầng lớp xã hội “ưu trội”. Tầng lớp này không “nổi” lên như một lực lượng xã hội, nhóm xã hội riêng rẽ mà bao gồm những người ưu tú, tài hoa nhất vượt trội lên từ khắp các giai cấp, tầng lớp, tổ chức trong xã hội. Đó là những công nhân với nhiều sáng kiến tìm tòi, làm việc có năng suất cao; những doanh nhân sản xuất kinh doanh giỏi. Đó là những nhà quản lý giỏi, những nhà khoa học có nhiều phát minh, sáng chế, đưa ra những quy trình công nghệ mới, những cơ chế quản lý ưu việt. Đó là những nông dân làm ăn giỏi, những chủ trang trại dám nghĩ, dám làm, năng động, sáng tạo.
Chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” cũng góp phần Thúc đẩy sự hình thành và phát triển lớp doanh nhân với xu hướng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, trở thành một lực lượng xã hội to lớn, quan trọng trong công cuộc chấn hưng đất nước. Bên cạnh những người nông dân truyền thống, đã hình thành những nông dân làm dịch vụ, làm chủ trang trại; có nông dân sống và làm việc ở nông thôn nhưng cũng đã ly nông. Sự chuyển dịch về kết cấu trong nội bộ giai cấp công nhân ít nhiều tác động tích cực đến sự nâng cao vai trò, vị thế của bản thân một bộ phận giai cấp công nhân Việt Nam. Đội ngũ trí thức ngày càng đông đảo về mặt số lượng và cũng chứa đựng sự phức tạp về kết cấu và sự biến động về tính chất của đội ngũ này trong xã hội(6).
Chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” đã, đang và sẽ thể hiện rõ nhất ở sự thay đổi nghề nghiệp. Sự thay đổi nghề nghiệp là bộ tiêu chí tổng hợp để phân nhóm và sắp xếp thứ bậc các tầng lớp trong xã hội. Bởi vì, nghề nghiệp là điểm xuất phát hữu ích nhất để người ta có được những nguồn lợi tài chính, địa vị xã hội và có ý nghĩa lâu dài đối với thế hệ con cái. Đồng thời, nghề nghiệp là nơi “quy tụ” và “hội tụ” tương đối đầy đủ các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và vị trí xã hội của mỗi cá nhân. Đồng thời, xác định vị trí, thu hút và thúc đẩy các cá nhân không ngừng tham gia các địa vị xã hội mới tốt đẹp hơn. Với xu hướng đảm bảo cho những người ưu tú, tài năng có cơ hội tiếp cận, vươn lên nắm giữ những vị trí nghề nghiệp quan trọng và có đóng góp nhiều hơn một cách thích hợp(7).
“Giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” là giá trị và mục tiêu của phát triển đất nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Giá trị, mục tiêu này phù hợp với nguyện vọng và mong muốn của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là mục tiêu tốt đẹp, tập hợp trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, động viên nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy tính tích cực và tự giác của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” đã và đang trở thành khát vọng, nhu cầu, cơ hội, năng lực và đích đến… của mọi tầng lớp nhân dân. Chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” vừa thể hiện sự tăng lên, đầy đủ, sung túc về vật chất, tiến bộ kinh tế của xã hội; đồng thời, biểu thị trạng thái giá trị xã hội, trách nhiệm xã hội và sự hài lòng, hạnh phúc của mọi chủ thể trong xã hội.
Chính sách “giảm nghèo bền vững” đã gặt hái nhiều thành thành công nhưng chính sách “làm giàu theo pháp luật” vẫn đang còn chưa rõ, nhiều vấn đề đặt ra, mặc dù mục tiêu “làm giàu theo pháp luật” đã có nhiều cơ hội để thực hiện thành công. Thực tế cho thấy, chúng ta có rất nhiều tài liệu nghiên cứu, chính sách và tấm gương sáng để truyền thông và lan tỏa mục tiêu “giảm nghèo bền vững”; nhưng còn thiếu công trình nghiên cứu, các tài liệu khoa học, chính sách và bằng chứng sống động nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, khát vọng làm giàu, cơ hội làm giàu, năng lực làm giàu, phương thức làm giàu, mục tiêu làm giàu theo pháp luật cho các giai tầng xã hội, nhất là đối với thanh niên.
Thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” ở Việt Nam đang gặp những khó khăn lớn, như: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Công tác cải cách hành chính trong một số lĩnh vực vẫn chưa thực chất. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nội dung còn chưa thực sự sâu sắc, thống nhất, nhất là vấn đề quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, sở hữu đất đai, phân bổ nguồn lực, mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và bền vững, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân... Tính thượng tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lĩnh vực chưa thực sự phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; còn có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”. Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách, giải pháp trên một số lĩnh vực chưa thực sự đồng bộ, quyết liệt. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.
Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, quy mô chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ lạc hậu; khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và trách nhiệm xã hội. Tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực nội tại còn yếu. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; độ mở nền kinh tế cao, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu; năng lực tiếp cận nền kinh tế số, xã hội số còn hạn. Thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước, tài nguyên và đất đai. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường diễn biến ngày càng nhanh, khốc liệt và khó lường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và cuộc sống người dân.
Việc ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách, pháp luật về “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” và các chính sách liên quan đang có nhiều “khoảng trống” bất cập, chưa đồng bộ, trùng chéo, thiếu sự liên kết với nhau. Trong thiết kế một số chính sách chưa nhất quán quan điểm kết hợp hiệu quả giữa hỗ trợ không điều kiện với trợ giúp có điều kiện để nâng cao năng lực nội sinh và động lực phát triển phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng vùng và từng đối tượng. Sự liên kết, phối hợp giữa Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và chương trình khởi nghiệp quốc gia... hướng đến mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp vẫn còn tình trạng thiếu chủ động, sáng tạo; thiếu sâu sát, thiếu sự phối hợp liên ngành, hiệu lực hiệu quả chưa cao; còn để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, thất thoát, lãng phí, chất lượng thấp. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá ở không ít nơi không được thực hiện nghiêm túc, kịp thời; chưa phát huy thật hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong thực hiện các chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Một số địa phương và tổ chức chưa chú trọng đúng mức đến nâng cao và phát huy nội lực của người dân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư, phát triển sinh kế, kết nối với các doanh nghiệp trong phát triển sản xuất hàng hóa, kinh doanh để làm nền tảng và động lực cho mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”.
Một nghịch cảnh đã và đang cản trở lớn đối với quá trình thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” của Việt Nam chính là “quốc nạn tham nhũng”. Tình trạng liên kết, móc ngoặc giữa người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế với người có chức quyền nhưng thoái hóa, biến chất đã tạo ra một xu hướng làm giàu bất hợp pháp, làm giàu bằng mọi giá, vi phạm pháp luật và đạo đức đang là một vấn đề nhức nhối ở nước ta hiện nay. Nghịch cảnh này là một rào cản lớn đối với việc thực hiện thành công chính sách “giảm nghèo bền vững, khuyến khích làm giàu theo pháp luật” để hướng tới thực hiện khát vọng đất nước hùng cường.
Thực hiện thành công chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” sẽ góp phần giảm khoảng cách giữa các nhóm hộ gia đình từ giàu đến nghèo ở Việt Nam hiện nay. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra và thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống: từ mức sống kinh tế đến đời sống văn hóa tinh thần; từ cơ hội tham gia thị trường lao động, việc làm đến các tiếp cận giáo dục, y tế... và đặc biệt, chính là sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội về sở hữu tài sản chỗ ở. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, xu hướng chung là các nhóm giàu và khá giả thường được hưởng lợi nhiều hơn và nhanh hơn so với các nhóm nghèo và gần nghèo(8).
Thực hiện thành công chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” sẽ góp phần tích cực cho việc thực hiện mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và giải quyết tốt các vấn đề xã hội; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Đồng thời, góp phần thực hiện kiểm soát phân tầng xã hội vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn của đất nước; bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong phát huy vai trò của từng thành phần kinh tế; đảm bảo tính hiệu quả của việc kiểm soát quyền lực, kiểm soát “quyền kiểm soát” tài sản công và kiểm soát tham nhũng(9).
Việc ban hành và thực hiện thành công hệ thống chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” tức là từng bước hướng đến đời sống nhân dân giàu có, xã hội phát triển tốt đẹp, quốc gia lớn mạnh. Mục tiêu và giá trị “giảm nghèo bền vững, khuyến khích làm giàu theo pháp luật” yêu cầu lấy sự phát triển lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho nhân dân có mức sống cao về đời sống vật chất và phong phú về đời sống tinh thần... chính là góp phần đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội, một mặt, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đất nước; mặt khác, thực hiện sự giàu có chung cho quảng đại quần chúng nhân dân. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu “giảm nghèo bền vững, khuyến khích làm giàu theo pháp luật” ở nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.
|
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP
Để chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” phải trở thành nhiệm vụ, mục tiêu ưu tiên trong quá trình chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương; của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương. Cần phải xác định Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân, chương trình mục tiêu quốc gia: Chiến lược quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; Chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình khởi nghiệp quốc gia… chính là những định hướng và giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự chuyển biến và đồng thuận của toàn xã hội trong thực hiện chính sách và nâng cao tính chủ động của người dân trong vươn lên làm giàu. Đẩy mạnh tuyên truyền mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” sâu rộng đến các cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư. Tôn vinh các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp, cách làm hiệu quả trong “giảm nghèo bền vững găn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Thúc đẩy sự phát triển và phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân trong thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Có cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thực hiện “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” đảm sự thống nhất của Trung ương về những vấn đề nguyên tắc, những định hướng và mục tiêu chung, gắn với cơ chế phân bổ nguồn lực. Đồng thời, phải hình thành cơ chế phân định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình của từng ngành, từng cấp cấp, từng tổ chức, đơn vị, nhất là những người đứng đầu; có cơ chế để khuyền khích thúc đẩy tinh thần “sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, các đơn vị và người lãnh đạo.
Hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đánh giá các chính sách trên từng lĩnh vực để có cơ sở đề xuất bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế chính sách mới cho phù hợp. Thể chế, cơ chế chính sách pháp luật về “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” phải có sự kết hợp phù hợp, hiệu quả giữa vai trò và nguồn lực nhà nước với vai trò và nguồn lực của xã hội; phải hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng tới từng bước nâng cao năng lực nội sinh, phát triển sinh kế ổn định, nâng cao tính tự chủ - tự quản trong sự liên kết hữu cơ với tất cả các chủ thể khác, nhất là các doanh nghiệp và các loại hình hợp tác xã… phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng vùng, từng đối tượng; nhất là đối với các vùng đặc biệt khó khăn, trình độ phát triển còn thấp, vùng dân tộc ít người. Nhận thức đúng bản chất, vị trí, vai trò, thể chế công tác “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước theo định hướng XHCN. Xây dựng hệ thống các cơ chế, chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” phải đảm bảo sự liên thông, kết nối, đồng bộ, phù hợp, hiệu quả giữa các lĩnh vực liên quan với nhau, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hệ thống chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” phải luôn gắn liền với thúc đẩy phát triển sản xuất hành hóa, tham gia vào các chuỗi sản xuất hàng hóa bền vững. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển hàng hóa phải Nhà nước phải chỉ đạo tổ chức thực hiện đồng bộ, phù hợp một loạt các chính sách, giải pháp liên quan phù hợp với từng vùng, từng đối tượng, như: đào tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp, giải quyết vấn đề đất sản xuất, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất kinh doanh, liên kết cung ứng đầu vào-đẩu ra, kết nối thị trường, ứng dụng khoa học- công nghệ để nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng của sản phẩm hành hóa.
Phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”, trong đó có sự phân công, phân cấp quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình rõ ràng giữa các cấp, các ngành; đồng thời ban hành rõ cơ chế phối hợp liên ngành mang tính pháp lý; phân định rõ những vấn đề quản lý phải đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất và trao quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm, theo nguyên tắc “Dân biết - Dân bàn - Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra - Dân thụ hưởng”. Các cấp ủy phải quán triệt sâu sắc yêu cầu, tính chất, nội dung của chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”, trên cơ sở đó lãnh đạo cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, mục tiêu, tiêu chí “giảm nghèo bền vững, khuyến khích làm giàu theo pháp luật” của Trung ương phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình; lãnh đạo chính quyền đưa vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng và triển khai thực hiện các giải pháp phù hợp với điều kiện của địa phương và các đối tượng cụ thể. Đồng thời, phải hoàn thiện thể chế, cơ chế để phát huy có hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp và tất cả các chủ thể khác, trong việc huy động các nguồn lực; tham gia thực hiện, giám sát, kiểm tra, đánh giá chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”.
Cần phải đặt chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với làm giàu theo pháp luật” đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với sự biến đổi về hệ thống cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu dự báo, xây dựng và phát triển một cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội phù hợp nhằm góp phần thúc đẩy mục tiêu thúc đẩy “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Đó là, giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và công nghiệp hóa, đô thị hóa; đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới; phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc. Đồng thời, logíc tất yếu của tiến trình này là sự hình thành tầng lớp xã hội trung lưu có vai trò, trách nhiệm và ảnh hưởng ngày một lớn đối với xã hội. Để trở thành một đất nước công nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng mô hình phân tầng xã hội dạng “quả trám”; với cấu trúc tầng lớp trung lưu chiếm đa số trong xã hội sẽ đảm bảo cho sự phát triển ổn định, hài hòa và bền vững của một cấu trúc xã hội hiện đại(10).
Tập trung ưu tiên thực hiện “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” đối với chủ thể nông dân và trong khu vực kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh triển khai các chương trình dạy cách “giảm nghèo bền vững gắn với làm giàu theo pháp luật” cho nông dân và ở khu vực kinh tế nông nghiệp. Ngành nông nghiệp cần hoàn chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với lợi thế cạnh tranh và yêu cầu thị trường. Chuyển mạnh từ xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi giá trị ngành hàng, nhất là chuỗi giá trị cho các ngành hàng chủ lực của các địa phương. Phát triển hợp tác xã ở các vùng chuyên canh hàng hóa quy mô lớn của các nông sản chủ lực để giảm các khâu trung gian, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp chế biến, thương mại lớn để hình thành chuỗi giá trị. Lấy chuỗi giá trị của các nông sản để kết nối các vùng chuyên canh nhỏ, hình thành không gian kinh tế chung giữa các địa phương tương đồng về điều kiện. Trên cơ sở đó, từng bước nâng cao hiệu quả, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, tạo điều kiện để triển kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác.
Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Cần phải hình thành tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Để khởi nghiệp thành công cần phải biết được nội lực của mình. Nhà nước cần có các chính sách nhất quán và đồng bộ từ chính phủ và các cấp chính quyền, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp. Cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, nhất là thanh niên về khởi nghiệp, lập thân lập nghiệp, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Tiến hành rà soát, đánh giá, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Nhanh chóng và kiên quyết cải cách thể chế theo hướng giảm mạnh thủ tục hành chính, triệt bỏ tệ nạn sách nhiễu doanh nghiệp từ các cơ quan công quyền, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình khởi nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp được thông suốt và hiệu quả. Khơi dậy và thúc đẩy tinh thần dấn thân, mạnh dạn, dám đối mặt với thách thức khởi nghiệp thành công.
Nâng tầm kế hoạch phát triển mới của đất nước trong thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật” để đạt mục tiêu “toàn dân làm giàu, cả xã hội giàu có”. Do đó, cần phải nâng tầm bộ máy quản lý nhà nước phù hợp với mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Kết quả của thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sẽ được đánh giá bằng các chỉ số về “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chuyển trọng tâm việc ban hành và tổ chức thực hiện chính sách “giảm nghèo bền vững sang chính sách giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”. Do đó, cần quan tâm thúc đẩy các giải pháp có tính khả khi trong việc phân bổ, bố trí nguồn lực và cơ hội tiếp cận các nguồn lực cho các nhóm xã hội, vừa thúc đẩy “giảm nghèo bền vững vừa thúc đẩy làm giàu theo pháp luật”. Thực hiện có hiệu quả chính sách giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong mục tiêu “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”; phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số nhanh; thúc đẩy định hướng chuẩn mực và giá trị xã hội: làm giàu chính đáng theo quy định của pháp luật, tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị trường…
PGS. TS. Nguyễn Tất Giáp
TS. Đỗ Văn Quân
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
--
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.163.
(2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 85, 265, 148.
(5) (6) (7) (8) (9) (10) Nguyễn Tất Giáp, Đỗ Văn Quân: Kiểm soát phân tầng xã hội, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2021.