(TG) - Tiếp biến văn hóa là kết quả mang tính tất yếu khi tham gia vào quá trình
giao lưu, hội nhập của hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật. Trong quá trình đó, như một lẽ tất nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực “được rất nhiều” là những mặt trái, “mất không
ít”. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao bản lĩnh và “bộ lọc”, nhằm
phát huy tốt nhất sự bồi đắp, làm giàu văn hóa dân tộc và khắc chế tối đa
những hệ lụy, tiêu cực.
TIẾP BIẾN ĐA TUYẾN, ĐA
CHIỀU, BẰNG NHIỀU KÊNH
Hội nhập ở Việt Nam
đã thúc đẩy và tạo ra
những tiền đề vô cùng
mạnh và rộng để văn hóa Việt
Nam hội nhập với khu vực và
thế giới.
Những thay đổi mạnh mẽ về
tư duy. Có lẽ chưa bao giờ trong
nhận thức xã hội, các quan
niệm, khái niệm về tự do tôn
giáo, nhân quyền, dân chủ, phát
triển con người, phát triển bền
vững, tự do văn hóa, báo chí,
sáng tác… lại được bàn luận trên
nhiều diễn đàn với các quy mô
khác nhau như hiện nay. Điều
này không chỉ có tác dụng đánh
thức tư duy, nhận thức mới về
sứ mệnh của văn hóa mà còn
khắc phục được sự phiến diện,
thiên lệch hoặc tầm nhìn hạn
hẹp khi xác định vai trò của văn
hóa trong phát triển. Từ năm
1998, với Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII, văn hóa được xác
định là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Từ nền tảng này, văn
hóa còn được xác định là một
trong bốn trụ cột của phát triển
bền vững, có vị trí ngang với
kinh tế, chính trị và xã hội. Từ
đây, văn hóa không chỉ có chức
năng nhận thức, giáo dục, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của con
người mà còn là nguồn lực nội
sinh, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội.
Những đổi mới trên phương
diện quản lý văn hóa. Song song
với việc xác định được mô hình
phát triển của nền văn hóa Việt
Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, những đổi mới mạnh
mẽ trên phương diện quản lý
văn hóa đã tạo ra những bước
ngoặt quan trọng trong hoạt
động bảo tồn, phát huy các giá
trị của di sản văn hóa; tham gia
tích cực vào việc tạo ra những
sản phẩm du lịch đặc trưng,
thúc đẩy phát triển kinh tế vùng
và cả nước, tăng trưởng GDP địa
phương và thúc đẩy phát triển
du lịch
Những động lực mới để văn
hóa phát triển đa dạng. Quá trình
đổi mới, hội nhập và tiếp biến
văn hóa trên nhiều khía cạnh
đã tạo ra những động lực mới
để văn hóa phát triển đa dạng,
phong phú; xuất hiện nhiều loại
hình, trong đó có cả những thiết
chế văn hóa mới. Các sản phẩm
văn hóa không chỉ góp phần
quan trọng tạo không khí dân
chủ, cởi mở hơn, dân trí được
nâng cao, tính năng động sáng
tạo, tự chủ mà còn phát huy tính
tích cực xã hội của con người,
hình thành các nhân tố mới, giá
trị mới của con người Việt Nam.
Sản phẩm văn hóa tăng đáng kể
về số lượng, có dấu hiệu tích cực
về chất lượng, đã và đang hình thành thị trường sản phẩm văn
hóa, văn học, nghệ thuật…
Văn học, nghệ thuật đã tạo ra
nhiều tác phẩm có giá trị, phản
ánh mọi lĩnh vực đời sống, đang
nỗ lực đổi mới tư duy sáng tạo,
tìm tòi phương thức mới để nâng
cao năng lực khám phá cuộc
sống. Hệ thống thông tin đại
chúng có bước phát triển mạnh
về loại hình, chất lượng, tính
hiện đại, trực tiếp, nhanh nhạy
chuyển tải, truyền bá văn hóa
đến với công chúng ngày càng
rộng hơn, góp phần không nhỏ
vào quá trình hình thành tư duy
phản biện xã hội trên phương
tiện thông tin đại chúng…
Thành tựu trong đối ngoại văn
hóa. Bằng cách tích cực và chủ
động mở rộng hợp tác quốc tế
về văn hóa, đường hướng “phát
triển văn hóa đối ngoại” đã trở
thành phương châm chính
trong chiến lược đối ngoại của
các ngành quản lý văn hóa, du
lịch, ngoại giao. Kết quả đem lại
là hàng loạt các di sản văn hóa
vật thể, phi vật thể của Việt Nam
đã đến được với bạn bè quốc tế,
đem lại sự ngạc nhiên thán phục
của thế giới về tính độc đáo, đặc
trưng của văn hóa Việt Nam.
Hàng loạt các di sản văn hóa
Việt Nam đã được ghi danh, xếp
hạng là di sản văn hóa của nhân
loại như: Vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh); Quan họ (Bắc Ninh), Ca
trù, Nhã nhạc cung đình Huế…
và gần đây nhất là “thực hành
tín ngưỡng Tam phủ”…
Việc ra đời pháp
lệnh, luật tín ngưỡng tôn
giáo đã không chỉ thừa
nhận tôn giáo như là
những thực thể xã hội, mà
còn tạo ra những hành
lang pháp lý để các tôn
giáo tích cực tham gia vào
phát triển xã hội, nâng cao
đời sống tinh thần, củng
cố đoàn kết xã hội và trở
thành một nguồn lực quan
trọng tham gia vào hệ
thống dịch vụ công và an
sinh xã hội. |
Bên cạnh đó, tiếp biến văn
hóa còn mở ra những kênh trao
đổi học thuật với nhiều quốc gia
văn minh trên thế giới, qua các
phương thức khác nhau từ du
học sinh đến trao đổi học giả…
Trong lối sống và phong cách
sống (theo nghĩa hẹp thể hiện từ
ăn, mặc, ở đến đi lại, ứng xử…),
tiếp biến văn hóa của Việt Nam
với thế giới đã đem lại những thành tựu rực rỡ. Cùng với sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế
là hàng loạt các thay đổi trên các
phương diện thụ hưởng cuộc
sống, nâng cao chất lượng sống
và thay đổi ứng xử liên quan đến
bình đẳng giới…
MẶT TRÁI CỦA TIẾP BIẾN
VĂN HÓA VÀ HƯỚNG
KHẮC PHỤC
Bên cạnh những thành quả
to lớn mang lại về kinh tế, văn
hóa, xã hội, quá trình hội nhập
nhanh và rộng của Việt Nam
trong hơn 30 năm qua cũng dẫn
đến nhiều hệ lụy không chỉ cho
văn hóa, xã hội mà cả kinh tế,
môi trường và con người ở Việt
Nam. Đó là sự hình thành ngành
công nghiệp văn hóa, thị trường
sản phẩm văn hóa mà chưa có
mô hình quản lý thích hợp, theo
kịp, gây ảnh hưởng không nhỏ
tới thị hiếu thẩm mỹ Á Đông,
nhất là sự khủng hoảng về đạo
đức và lối sống.
Có thể thấy, bên cạnh việc
hình thành tư duy sống chất
lượng, lối sống ích kỷ, vụ lợi cá
nhân cũng bắt đầu hình thành và
ngày càng xâm nhập vào nhiều
tầng lớp trong xã hội. Lối sống
thiên về hưởng thụ, sống gấp
đang huỷ hoại dần nhân cách
của nhiều người dẫn đến nhiều
giá trị truyền thống dần trở nên
mai một. Trong khi đó, khủng
hoảng niềm tin cũng đang là một
trở ngại lớn đối với việc thiết lập
các quan hệ xã hội và thực hiện
các mục tiêu kinh tế, chính trị.
Điều tra giá trị châu Á năm 2008
của Viện Nghiên cứu con người
cho biết: có tới 58,5% người Việt
Nam cho rằng không thể tin
vào bất kỳ ai mới tiếp xúc. Bệnh
“ngợp bởi vật chất” cũng khiến
không ít người, nhất là giới trẻ
hiện nay thiên lệch về nhu cầu
vật chất, thể hiện xu hướng thái
quá hơn trên mọi khía cạnh.
Những “trào lưu”, “thị hiếu”,
“thời thượng” chế ngự không ít
những cá nhân đang tìm đủ cách
kiếm tiền, sống gấp...
Tệ xâm hại tình dục, ngược
đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn
của học sinh, sinh viên có xu
hướng gia tăng; bạo lực học
đường phổ biến ở cả những học
sinh nữ; một bộ phận thầy, cô
giáo suy giảm nhân cách, đạo đức
làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh
nghề giáo… làm gia tăng sự khủng
hoảng niềm tin trong xã hội.
Trong khi đó, tình trạng
khủng hoảng giá trị giữa cũ và
mới đã và đang phá vỡ nhiều
hình thức và nội dung trong lối
sống truyền thống Việt Nam.
Khi khuếch trương mặt tích cực
của tiêu dùng thì quan niệm
tiêu dùng đã chuyển thành quan
niệm tiêu thụ thuần túy. Khi tiêu
dùng trở thành mục đích sống
thì chất lượng của đời sống là
tiêu thụ - hưởng thụ!. Tư tưởng
tiêu dùng đã biến cả nghệ thuật
thành hàng hoá đơn thuần; giáo
dục thành quan hệ đổi chác,
mua bán; sinh hoạt tâm linh
vốn thiêng liêng nhiều khi cũng
trở thành nơi thu lợi nhuận. Từ
lối sống tiêu thụ dẫn đến phân
biệt giàu - nghèo qua cách “chơi
trội”, với ý thức đề cao tiện nghi.
Lối sống lạnh lùng kiểu “tiền
trao cháo múc” của xã hội tư sản
tràn vào xã hội Việt Nam dẫn
đến tư tưởng xem thường thuần
phong mỹ tục, thậm chí xem rẻ
nhân phẩm con người. Tư tưởng
tuyệt đối hoá điều kiện vật chất
và kỹ thuật, lấy phương tiện
sống làm thước đo sự phát triển
con người và xã hội của không ít
người đang làm sai lệch các giá
trị đích thực và lý tưởng nhân
văn cao đẹp mà ông cha ta đã
hàng nghìn năm vun đắp. Cùng
với đó, tình trạng thiếu hiểu biết
pháp luật, nhân cách kém và sự
thiếu hụt, lệch lạc của giáo dục
truyền thống cũng đang ảnh
hưởng không nhỏ tới giới trẻ…
Tiếp biến văn hóa là một
hình thức biến nhiều lợi ích tiềm
năng mà giao lưu văn hóa đem
lại thành những lợi ích thực tế,
song cũng đưa đến những thách
thức không nhỏ. Vì vậy, để tạo ra
những sản phẩm văn hóa vượt
gộp, làm nên những giá trị văn
hóa sống mãi với thời gian và
khống chế được những bất cập,
mặt trái, cần tập trung vào một
số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức
của các cấp ủy, chính quyền,
ban, ngành chức năng về xây
dựng và phát triển văn hóa, để
văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Chú trọng “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”
theo tinh thần Nghị quyết số
33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI. Trong đó,
tiếp tục xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học.
Hai là, tăng cường và đổi mới
công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống
chính trị và toàn xã hội về vị trí,
vai trò của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam. Tích cực đấu tranh,
bài trừ các sản phẩm văn hóa độc
hại, phản động, đồi trụy; đồng
thời, hạn chế hoặc gạt bỏ những
hủ tục để tạo dựng đời sống tinh
thần lành mạnh trong nhân dân.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính
sách phát triển văn hóa đối
ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ
thuật quốc gia và xuất khẩu các
sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.
Chủ động mở rộng hợp tác văn
hóa với các nước, thực hiện đa
dạng các hình thức văn hóa đối
ngoại và đưa các quan hệ quốc tế
về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt
hiệu quả thiết thực. Tiếp nhận
có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, làm phong phú thêm
văn hóa dân tộc với tinh thần
chủ động để vừa đón nhận cơ
hội phát triển vừa vượt qua các
thách thức, nhằm giữ gìn, hoàn
thiện bản sắc văn hóa dân tộc;
đồng thời, hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt
trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện
thể chế, chế định pháp lý và
thiết chế văn hóa bảo đảm xây
dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Xây dựng thị trường văn hóa
lành mạnh, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp văn hóa, tăng cường
quảng bá văn hóa Việt Nam.
Đồng thời, từng bước thu hẹp
khoảng cách về hưởng thụ văn
hóa giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng miền và các giai
tầng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùi
sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập đa
chiều với thế giới hôm nay, bản
lĩnh trong tiếp biến, làm giàu
văn hóa dân tộc và khắc chế
những hệ lụy, mặt trái tới đâu
sẽ tạo ra độ khúc xạ văn hóa
tới đó. Bản lĩnh càng cao thì độ
khúc xạ càng mạnh mẽ và khi
ấy các thành tựu văn hóa ra đời
và phát triển.
TS. Nguyễn Ngọc Mai
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 1/2019