Thứ Tư, 25/9/2024
Kinh tế
Thứ Bảy, 18/10/2008 15:12'(GMT+7)

Tiếp tục thực hiện một số giải pháp kinh tế-xã hội những tháng cuối năm 2008

Ảnh có tính chất minh hoạ

Ảnh có tính chất minh hoạ

Việc triển khai thực hiện các kết luận 22-KL/TW và Kết luận 25-KL/TW về các giải pháp điều hành kinh tế - xã hội trong năm 2008 đã mang lại kết quả nhất định trong 9 tháng đầu năm về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững. Sau khi có Kết luận của Bộ Chính trị (Kết luận 22-KL/TW và Kết luận 25-KL/TW), Chính phủ đã ban hành hệ thống giải pháp khá đồng bộ; các cấp uỷ đảng, chính quyền các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai cụ thể, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc để kiềm chế lạm phát, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất và đảm bảo an sinh xã hội, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn, củng cố lòng tin của nhà đầu tư và nhân dân.

Kết quả đạt được là: Lạm phát trong mấy tháng gần đây đã giảm, đến tháng 9-2008 lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng) đã tăng chậm lại ở mức 0,18%; tình hình tài chính - tiền tệ từng bước ổn định và bớt khó khăn hơn, thị trường chứng khoán dần được phục hồi, tỉ lệ nhập siêu giảm dần. Cân đối ngân sách tiếp tục được giữ vững, tổng thu đạt kế hoạch đề ra, đặc biệt thu nội địa tăng cả về tỉ trọng và giá trị tuyệt đối, cán cân thanh toán quốc tế tương đối ổn định. Các chính sách bảo đảm an sinh xã hội được quan tâm, đặc biệt là những chính sách liên quan đến bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức nghỉ hưu, đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, hỗ trợ người nghèo, nhân dân ở các vùng lũ lụt, dịch bệnh, ngư dân do ảnh hưởng của giá cả nhiên liệu tăng cao... đã được triển khai tương đối kịp thời. Sản xuất tăng trưởng khá, xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, kim ngạch xuất khẩu tăng 33,9%, trong đó kim ngạch nhiều mặt hàng chủ lực tăng cao. Cơ cấu thị trường đã có nhiều thay đổi, tăng nhanh thị phần xuất khẩu sang thị trường các nước châu Á, châu Phi, Tây Nam Á. Thu hút vốn đầu tư xã hội tiếp tục duy trì ở mức cao. Tổng đầu tư xã hội bằng 39% GDP và tăng 11% so với năm 2007. Trong đó, vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, góp phần bù đắp sự suy giảm nguồn vốn trong nước; vốn đầu tư của khu vực dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp tục được khai thác có hiệu quả. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới và tăng vốn đạt cao với trên 47 tỉ USD (gấp 5 lần so với 8 tháng đầu năm 2007), vốn thực hiện ước đạt 8 tỉ USD.

Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta còn rất nhiều khó khăn, hạn chế và yếu kém như sau:

Những tháng đầu năm, việc triển khai các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô chưa đồng bộ, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Nhận thức việc giải quyết mối quan hệ giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế giữa các cơ quan Trung ương và các địa phương chưa thật thống nhất. Một số địa phương, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ chủ trương này nên vẫn coi trọng mục tiêu tăng trưởng hơn mục tiêu chống lạm phát. Một số giải pháp cụ thể chưa được triển khai hoặc triển khai chưa triệt để. Chưa đề cao đầy đủ trách nhiệm các cơ quan trong điều hành và thực thi chính sách.

Trong 8 nhóm giải pháp của Chính phủ đề ra, thì những giải pháp về tiền tệ được triển khai sớm và quyết liệt. Tuy nhiên, có thời điểm việc điều hành chưa thực sự linh hoạt, chủ động, còn phải dùng nhiều biện pháp mang tính hành chính. Chưa thực hiện quyết liệt việc triệt để tiết kiệm, tốc độ tăng tổng chi ngân sách vẫn cao (18%). Việc cắt giảm các dự án đầu tư chưa kiên quyết, chủ yếu mới dừng ở mức tự giác của các đơn vị, địa phương; chưa kịp thời xem xét, đánh giá mức độ ưu tiên các dự án, công trình theo hiệu quả và tính cấp bách của dự án. Trong công tác điều hành giá cả và thị trường còn để xảy ra những cơn sốt giá trong khi nguồn cung khá dồi dào (như gạo, xi măng), hoặc giảm giá mạnh (cá tra). Nhập siêu gia tăng về cả tốc độ và giá trị so với các năm trước đang là một thách thức đối với nền kinh tế. Trong đó, nhập siêu hàng tiêu dùng đắt tiền, nhập máy móc thiết bị có công nghệ thấp, lạc hậu, gây tác hại xấu đến môi trường đang là những bất lợi cho nền kinh tế vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Việc bảo đảm an sinh xã hội còn nhiều khó khăn. Những vấn đề bức xúc như việc bảo đảm đời sống cho công nhân ở các khu vực công nghiệp tập trung, vấn đề đảm bảo việc làm, đời sống cho nông dân khi bị thu hồi đất đai chưa được giải quyết tốt, gây đình công, khiếu kiện gia tăng. Tỉ lệ nghèo và tái nghèo tăng ở nhiều nơi, đặc biệt là những địa phương bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh. Việc thực hiện Chương trình mục tiêu về xoá đói, giảm nghèo, Chương trình giải quyết việc làm, Chương trình 135... một số địa phương thức hiện không đạt mục tiêu đã đề ra. Nhiều giải pháp an sinh xã hội triển khai chậm do thủ tục còn rườm rà, không hỗ trợ kịp thời cho nhân dân trong lúc khó khăn.

Nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó khăn, bất cập, nếu không kịp thời chấn chỉnh thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và những năm tiếp theo. Những kết quả đạt được về kiềm chế lạm phát trong thời gian vừa qua chỉ là bước đầu, chưa vững chắc và chưa ổn định. Khó khăn trong sản xuất nói chung, nhất là trong công nghiệp thể hiện rất rõ; giá thành hầu hết các sản phẩm công nghiệp đều tăng khoảng 15 - 20% do giá nguyên liệu, nhiên liệu, lãi suất tăng cao; nhiều lĩnh vực sản xuất đầu tư giảm; các ngành phụ trợ chậm phát triển, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất đang gặp rất nhiều khó khăn và thiếu vốn do lãi suất cao, khả năng tiếp cận vốn thấp. Theo số liệu của Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ thì có khoảng 20% doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, 40% đang rất khó khăn và có thể ngừng hoạt động vào năm 2009. Tình trạng nợ xấu ngân hàng có thể sẽ gia tăng do những hạn chế trong hoạt động tín dụng những năm qua; hệ thống tài chính, tiền tệ còn nhiều bất cập nhưng chưa khắc phục được. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh, nhưng sắp tới cần lưu ý nhiều hơn về cơ cấu, kể cả lĩnh vực địa bàn và đối tác (các dự án có vốn đầu tư lớn hiện nay chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực sản xuất thép, hoá dầu và bất động sản, là những dự án có ảnh hưởng nhiều đến môi trường, ít có dự án công nghệ cao). Yếu tố công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đóng góp nhiều trong tăng trưởng kinh tế. Tình trạng thiếu nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển diễn ra khá gay gắt ở các ngành, các doanh nghiệp và khu vực hành chính công, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng của các năm tiếp theo. Lòng tin của một bộ phận nhân dân bị suy giảm do giá cả, lạm phát tăng cao, một số chính sách triển khai thiếu quyết liệt...

Nguyên nhân và vấn đề rút ra qua việc lãnh đạo, điều hành kinh tế - xã hội năm 2008

Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2008 có nhiều diễn biến mới và phức tạp hơn so với các năm trước cho thấy một số vấn đề rút ra để phục vụ công tác lãnh đạo, điều hành kinh tế - xã hội từ nay đến cuối năm và năm 2009 như sau:

Công tác dự báo và cảnh báo còn yếu nên việc xử lý còn thiếu chủ động. Sau khi gia nhập WTO, ảnh hưởng của tình hình thế giới với kinh tế trong nước là rất nhanh nhạy, mặc dù đã được lưu ý chỉ đạo nhưng công tác dự báo và cảnh báo cho điều hành thị trường nhìn chung vẫn còn lúng túng, thiếu kế hoạch, kịch bản cụ thể.

Sự phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương, giữa Trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau trong công tác lãnh đạo, điều hành chưa được coi trọng đúng mức. Chưa đề cao đầy đủ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trong việc xử lý tình huống.

Việc lãnh đạo, điều hành và thực thi chính sách cần có sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức từ trong Đảng đến ngoài xã hội, từ Trung ương đến địa phương, song trên thực tế yêu cầu này chưa được thường xuyên thực hiện tốt.

Vì vậy, để thực thiện tốt Kết luận của Bộ Chính trị từ nay đến cuối năm, cần làm tốt hơn nữa một số vấn đề sau:

1. Tiếp tục ưu tiên cho việc thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Nếu như trong những tháng đầu năm vấn đề thực thi chính sách tài chính- tiền tệ thắt chặt là một yêu cầu cao nhất, và mãnh liệt nhất. Chính sách này đã mang lại kết quả trực tiếp đối với việc kìm chế lạm phát. Tuy nhiên, chính sách này đã được thực hiện một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt, dẫn đến đình trệ sản xuất. Vì vây, tư tưởng chung từ nay đến cuối năm, thực hiện kết luận của Bộ Chính trị cần tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng linh hoạt trong điều hành để vừa góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy đầu tư sản xuất, kinh doanh, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Xử lý linh hoạt hơn chính sách tiền tệ - tín dụng theo hướng coi trọng các giải pháp về kinh tế, đồng thời có thể sử dụng các biện pháp về hành chính nhưng chỉ là ngắn hạn, giải pháp đưa ra cần tuân thủ quy luật của thị trường, phù hợp với các cam kết quốc tế. Giải quyết đồng bộ giữa chính sách tiền tệ thắt chặt với chính sách tài chính tiết kiệm để bảo đảm hiệu quả của cặp chính sách này trong việc kiềm chế lạm phát. Đẩy mạnh hoạt động cảnh báo, giám sát nền kinh tế, tăng cường công tác dự báo kinh tế; tiếp tục lưu ý việc quản lý các luồng vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.

Đối với những lĩnh vực đầu tư, sản xuất có hiệu quả, cần phải khơi thông luồng vốn, giảm tới mức thấp nhất các chi phí trung gian để cho doanh nghiệp có nhu cầu vốn, có hiệu quả sử dụng vốn vay cao tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng và hệ thống tài chính. Lịch sử việc sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ không mang lại kết quả mong đợi về điều chỉnh luồng vốn từ nơi có hiệu quả sang nơi kém hiệu quả, thay vào đó là việc đẩy nền kinh tế đến bối cảnh trì trệ. Vì vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt linh hoạt phải được hiểu theo nghĩa về tổng thể chính sách này là thu hẹp tổng phương tiện thanh toán, giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng nhưng không làm ách tắc luồng vốn mà điều chuyển từ nơi kém hiệu quả sang nơi có hiệu quả cao hơn.

Đối với việc thực hiện chủ trương “Rà soát, chấn chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại; quản lý chặt chẽ việc thành lập các ngân hàng thương mại mới, bảo đảm an toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng” là một trong những chủ trương cần phải được quán triệt triệt để. Sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng thương mại ở Mỹ và các nước trên thế giới những ngày gần đây cho thấy, để có thể bảo đảm sự an toàn hệ thống, ngay trong lúc này, là cơ hội để chúng ta cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; tạm dừng cấp giấy phép các ngân hàng mới để củng cố lại hệ thống các điều kiện, công cụ kiểm soát các ngân hàng là rất cần thiết và cần phải tiến hành ngay.

Xung quanh việc thực hiện kiên quyết hơn nữa việc tiết kiệm chi tiêu trong cả khu vực nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội những tháng qua cho thấy, việc thực hiện cắt giảm và tiết kiệm chi tiêu ngân sách còn rất nhiều hạn chế. Tình trạng rất phổ biến hiện nay là chính sách tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm đầu tư từ ngân sách chủ yếu mới được thực hiện ở Trung ương, dường như các chính sách này chưa thật triệt để thực hiện ở khối địa phương. Nhiều địa phương vẫn coi trọng việc bảo đảm vốn đầu tư cho tăng trưởng và đạt mục tiêu của Đảng bộ đề ra. Vì vậy chính sách tài chính từ nay đến cuối năm cần phải hướng vào việc tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tiết kiệm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm chi tiêu đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Đối với các địa phương, ngoài việc cắt giảm chi đầu tư các công trình đã chỉ đạo, cần rà soát để cắt giảm, điều chỉnh tiếp phần kinh phí từ nguồn vượt kế hoạch Trung ương giao; xem xét danh sách thứ tự cắt giảm đầu tư đối với các dự án không giới hạn về quy mô nếu không có hiệu quả và chưa thật sự cần thiết.

Tăng cường công tác quản lí ngân sách, phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước để giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Vấn đề điều chuyển chi tiêu từ nơi này sang nơi khác và việc chi tiêu không bảo đảm kế hoạch phải được kiểm soát kỹ; kiên quyết cắt giảm chi tiêu các trường hợp không thực hiện được trong năm. Kiểm soát chặt chẽ việc tạm ứng chi kho bạc ở các tỉnh , thành phố.

Tiếp tục thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ có hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính của doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo hoàn thành các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao. Vấn đề lựa chọn đầu tư rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, việc cắt giảm đầu tư tổng thể phải gắn với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế đầu tư vào khu vực không tạo ra của cải, vật chất nhất là đầu tư vào kinh doanh bất động sản, chứng khoán, đến xây trụ sở...

Huy động có hiệu quả cao nhất các nguồn lực cho đầu tư phát triển, cơ cấu lại đầu tư từ ngân sách, điều chỉnh việc huy động nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng ưu tiên các dự án công nghệ cao, ít ảnh hưởng đến môi trường. Khai thác tối đa vốn của khu vực tư nhân, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Có cơ chế cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài (ưu tiên đối với các nước Lào, Cam-pu-chia...). Tiếp tục cắt giảm những dự án đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa cần thiết, không phân biệt quy mô dự án. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.

Theo dõi chặt chẽ diễn biến cung - cầu các mặt hàng trọng yếu, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Trong đó đặc biệt quan tâm đến các mặt hàng có khả năng căng thẳng về cân đối cung cầu cuối năm như nhóm hàng xây dựng xi măng, sắt thép, nhóm hàng thực phẩm vào cuối năm và giáp tết. Đồng thời, quan tâm đến điều phối cung - cầu hàng hoá hợp lý giữa các vùng, miền, không để thiếu hàng cục bộ. Tăng cường quản lý giá cả, thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để ổn định giá, chống đầu cơ, buôn lậu, hạn chế tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ, chưa phù hợp với điều kiện chung của đất nước. Tình hình lạm phát 3 tháng quí 3 có những biểu hiện tích cực hơn, đi đôi với những thuận lợi do giá cả thế giới đang giảm. Tuy nhiên, để có thể giảm lạm phát xuống dưới 25% thì rất cần các biện pháp bình ổn thị trường. Trong điều kiện hiện nay, để giải quyết mối quan hệ giữa ngắn hạn và dài hạn cần phải khẩn trương có kế hoạch để xem xét điều chỉnh giá các mặt hàng theo nguyên lí thị trường, giảm bớt tác động của nhà nước vào giá cả các mặt hàng này. Xem xét điều chỉnh giá một số mặt hàng đi đôi với chính sách hỗ trợ trực tiếp cho một số đối tượng.

Vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ và kiên quyết hơn nữa việc hạn chế nhập khẩu để giảm mạnh nhập siêu vẫn tiếp tục là áp lực từ nay đến cuối năm. Tình hình nhập khẩu những tháng gần đây đang có diễn biến xấu, xuất khẩu đang có xu hướng giảm, mặc dù mức tăng trưởng trong 3 quí vẫn ở mức khá cao trên 35%, nhưng nếu không tiếp tục có các giải pháp để khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng quan trọng như gạo, cà phê, các mặt hàng gia công thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả tăng trưởng cả năm. Trong việc khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu rất cần đến việc áp dụng đồng bộ các chính sách về thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và các chính sách phi thuế quan, chính sách tiền tệ, tín dụng, chính sách trợ cấp một cách linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với cam kết quốc tế, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và giảm nhập siêu.

2. Tiếp tục các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác quản lý thị trường. Liên quan đến chính sách để tháo gỡ các khó khăn trong sản xuất, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về vấn đề này cần xem xét đến một số vấn đề chính như: tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận và vay vốn ngân hàng. Quan tâm việc khai thông luồng vốn cho sản xuất một cách linh hoạt, điều chỉnh những vướng mắc trong việc triển khai các chương trình tín dụng; tăng cung ứng vốn cho khu vực làm ăn có hiệu quả (nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Trong 3 quí đầu năm khu vực doanh nghiệp dân doanh đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao nhất, tốc độ tăng trưởng trên 23%; trong khi đó khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng trưởng 6-6,5%. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp này đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, về lãi suất và sức ép về tiền lương. Vì thế, để giải quyết khó khăn trong giai đoạn lạm phát cao, khuyến khích thu hút lao động thì rất cần quan tâm đến các doanh nghiệp này. Đồng thời, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bãi bỏ các quy định không phù hợp gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Tạo các điều kiện cần thiết cho phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ có lợi thế, có hiệu quả để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ưu tiên thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

Đối với khó khăn trong lĩnh vực đầu tư, cần phải thực hiện tạm ứng vốn kịp thời cho các nhà thầu để giải quyết khó khăn về vốn cho các công trình xây dựng sắp hoàn thành, nhất là công trình kết cấu hạ tầng then chốt của nền kinh tế. Tiếp tục thu hút và đẩy mạnh việc giải ngân các nguồn vốn FDI, ODA...

Cần thực hiện quyết liệt hơn việc xem xét giãn thời gian nộp thuế cho những doanh nghiệp gặp khó khăn trong một thời gian nhất định như kết luận của Bộ Chính trị

3. Tăng nguồn lực bảo đảm và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Sớm triển khai thực hiện các nghị quyết Trung ương về công nhân, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, khi có điều kiện thuận lợi thì đẩy nhanh hơn để bảo đảm đời sống của người lao động. Chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ cận nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp cần phải được các cấp, các ngành thực hiện nghiên túc hơn. Trong đó phải xem xét và điều chỉnh lại các thủ tục tiếp nhận hỗ trợ theo hướng vừa đơn giản, nhanh đến người thụ hưởng nhưng dễ dàng cho công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các tổ chức thực hiện nhiệm vụ an sinh xã hội, các chính sách hỗ trợ người nghèo. Triển khai tốt hơn, chủ trương trợ cấp khó khăn các đối tượng lương thấp, các đối tượng hưởng chế độ trợ hưu trí và trợ cấp xã hội.

Cần phải xem xét và điều chỉnh chương trình hỗ trợ người nghèo theo hướng thu hút nhiều nguồn lực, tăng cường trách nhiệm của các ngành các cấp, người nghèo thụ hưởng nhiều hơn và có cơ chế giám sát rõ ràng hơn. Tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến hỗ trợ học sinh, sinh viên, các hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Nâng mức hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người nghèo và cận nghèo. Đối với việc chỉ đạo giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội bức xúc (khiếu kiện của nông dân, đình công của công nhân...), mỗi cấp ủy cần rà soát lại tình hình thực tế ở địa phương, nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai tôn giáo, vấn đề đền bù, vấn đề nhà ở cho công nhân viên chức để có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết dứt điểm những điểm nóng trên địa bàn, không để lây lan ra các khu vực khác.

Song song với các chính sách bảo đảm xã hội, cần chủ động trong việc dự báo, tăng dự phòng, dự trữ và tổ chức tốt các hoạt động phòng, chống thiên tai, nhất là mùa bão lũ ở khu vực miền Trung, miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời ngăn chặn dịch bệnh thường xảy ra cuối năm như cúm gia cầm, dịch bệnh tai xanh; dịch rầy nâu và các dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản ở phía Nam.

4. Đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách hành chính, trong đó đặc biệt chú ý đến các thủ tục hành chính liên quan đến thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, thành lập doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài..., đơn giản hoá thủ tục, xoá bỏ giấy phép con để tạo điều kiện thông thoáng cho sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.

5. Quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động từ Trung ương đến địa phương; tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước trong việc vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế đất nước. Đẩy mạnh tuyên truyền việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và sinh hoạt tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về lối sống tiết kiệm trong xã hội.

Để các biện pháp thực sự có hiệu quả cần có cách xử lí linh hoạt, đồng bộ và có các liều lượng cho từng chính sách trong từng giai đoạn cụ thể. Trong đó từ nay đến cuối năm cần thực hiện tốt các giải pháp trước mắt, đồng thời phải có những bước đi, lộ trình cho các giải pháp dài hạn về cơ cấu lại nền kinh tế, về tiếp tục thực hiện cơ chế thị trường định hướng XHCN. Có như vậy mới mang lại hiệu quả cao nhất trong việc thực thi chính sách./.

Ts. Nguyễn Hữu Từ

Vụ trưởng, Vụ Kinh tế - Văn phòng Trung ương Đảng

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất