TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Một là, xây dựng nền hành chính hợp hiến, hợp pháp
Chế
độ dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh:
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên
nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(1). Nhà nước mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cập đến là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mang
bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc;
tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Do vậy, nền hành
chính nhà nước phải phù hợp với bản chất của nhà nước, của chế độ chính
trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, gắn bó với quần chúng nhân dân,
phục vụ nhân dân và lấy lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm cơ
bản.
Tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến
pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có
một hiến pháp dân chủ”(2). Điều này cho thấy vai trò, tầm
quan trọng của hiến pháp trong xây dựng một nhà nước tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc pháp quyền, trước hết là hiến định chủ quyền của
quốc gia - dân tộc, ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Với
tính chất quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức một cuộc
tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ chính thức cũng như ban
hành Hiến pháp. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 được tiến hành thắng
lợi với chế độ phổ thông đầu phiếu. Qua bầu cử Quốc hội khóa I và các kỳ
bầu cử Quốc hội sau đó, các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của công dân từng bước được thực thi. Bản Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp
dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Quốc hội
thông qua với sự đồng thuận gần như tuyệt đối của các đại biểu (240/242
phiếu). Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, chế định bản chất cách mạng, tính dân chủ, nhân dân và pháp
quyền thành những điều khoản cụ thể. Đây chính là quá trình hiện thực
hóa, pháp chế hóa, thể hiện tính ưu việt của một chế độ mới luôn mưu cầu
quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.
Cùng
với Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao nguyên tắc pháp quyền
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Trước đó, từ rất sớm, Người đã
yêu cầu: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp
quyền”(3). Pháp luật là tối thượng và phải có mặt trong mọi
hoạt động của đời sống xã hội, bất kể cá nhân hay tổ chức đều phải tuân
theo. Việc xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp gắn với xây dựng một
nền hành chính dân chủ, liêm chính, khoa học luôn là vấn đề thường trực
trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng tới xây dựng “chính quyền mạnh mẽ
và sáng suốt” của nhân dân.
Hai là, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân
Lấy
mục tiêu phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành
chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “1- Làm cho dân có ăn;
2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học
hành”(4). Đây cũng chính là ham muốn tột bậc của Người, rằng:
“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5). Do vậy, nền
hành chính nhà nước phải vì: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đây là cơ sở
để hướng mọi nỗ lực của các cơ quan hành chính vào phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Ngày 3/6/1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặt ra trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trước nhân dân:
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”(6). Điều đó có nghĩa là Đảng và Chính phủ không chỉ lo những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thiết thực đối với nhân dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền hành chính phục vụ, một
nền hành chính của dân, do dân và vì dân; công chức hành chính là đầy tớ
của dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân như
trong thời phong kiến, thực dân. Cá nhân hay tổ chức làm hại dân thì
dân có quyền phê bình, thậm chí “đuổi cổ” họ. Với tư tưởng đó, nền hành
chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự độc đáo, sáng tạo và mang
tính dân chủ sâu sắc. Một nền hành chính mạnh mẽ, sáng suốt là nền tảng
cho việc tổ chức nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm cho
hiệu lực pháp luật được triển khai trong thực tế.
Ba là, xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
Xây
dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ rất quan
trọng trong xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền. Đây cũng là
đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển bền vững của đất nước.
Trong
quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên
quyết chống lại các tiêu cực nhằm xây dựng một nền hành chính trong
sạch, liêm chính, tinh gọn và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thể hiện
bản chất nhà nước kiểu mới, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ra sức phục
vụ nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phụ thuộc
lớn vào hiệu quả hoạt động của các thành phần cấu thành nên nó. Do vậy,
cần phải xây dựng một bộ máy hành chính đồng bộ, khoa học, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra một phương châm nhất
quán: gọn nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt
các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu
rõ, để đặt chính sách cho đúng”(7). Do đó, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam.
Để có nền hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần có quy
trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ phù hợp,
đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng. Về số lượng, trước yêu cầu ngày càng
lớn của cách mạng, Người rất quan tâm đến số lượng cán bộ, công chức.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình thức chọn cán bộ để bảo đảm về
số lượng, như qua kỳ thi, qua xét học bạ hay văn bằng và đề nghị của hội
đồng tuyển trạch. Cùng với đó, Người đã ra thông lệnh Tìm người tài đức để tuyển chọn cán bộ: “Nước
nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20
triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... các địa phương
phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những
việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”(8). Ngoài
ra, Người còn chỉ ra các nguồn nhân tài từ các nhân sĩ, trí thức trong
chế độ cũ có tinh thần yêu nước; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng và
rộng rãi trong nhân dân.
Về chất lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Tổ quốc.
Đây là phẩm chất đạo đức cao nhất đối với người cách mạng bởi trong các
mối quan hệ thì mối quan hệ với Tổ quốc, với dân tộc là thiêng liêng và
cao quý nhất. Cán bộ nhận thức đúng đắn được vấn đề này thì họ mới có
thể toàn tâm, toàn ý phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng và đặt
quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Lòng trung thành
của cán bộ phải được thể hiện qua công việc hằng ngày, trong mọi lĩnh
vực và trong hiệu quả công tác. Trong lịch sử, rất phổ biến tâm lý làm
quan để “cả họ được nhờ”, rồi nghiễm nhiên trở thành “dân chi phụ mẫu”.
Còn trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “trả lại” cán bộ, công
chức nhà nước về đúng vị trí là công bộc của nhân dân. Mỗi cán bộ phải
nhận thức và hành động trong sáng, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc.
Cán bộ phải hiểu rằng, quyền lực mình đang có trong tay là do dân uỷ
thác chứ không phải tự nhiên mà có, phải dùng quyền lực đó để phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Nhân dân mới là người có quyền lực to nhất,
do vậy, mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động theo phương châm: “Việc
gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(9).
Thứ hai, cán bộ phải có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm trình
độ về chuyên môn, đạo đức. Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòà, Điều 17 của Sắc lệnh quy định rõ: “Tùy nhu cầu công việc, cấp quản
trị công chức sẽ mở những kỳ thi tuyển dụng nhân viên. Kỳ thi phải công
bố trước ngày thi ít nhất là 2 tháng. Thể lệ và chương trình thi vào
mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ
Quốc gia Giáo dục và Bộ Nội vụ”. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 10-NV2,
quy định rõ các phần thi, gồm: “phần 1: một bài luận về văn chương, công
dân, giáo dục và thường thức (làm bài trong 2 giờ, được tính hệ số 3);
phần 2: một bài địa lý và sử ký (theo chương trung trung học phổ thông, 1
giờ 30 phút, hệ số 2); phần 3: một bài về tổ chức bộ máy chính quyền,
Hội đồng nhân dân tỉnh, xã và ủy ban kháng chiến hành chính các cấp (3
giờ, hệ số 3); phần 4: một bài đánh máy chữ (30 phút, hệ số 2); phần 5:
một bài tốc ký (Nếu thí sinh tình nguyện) và một giờ dịch ra tiếng Việt
(hệ số 2); đồng thời, giới hạn nội dung cụ thể cho từng phần thi và quy
định thang điểm là từ 0 đến 20 điểm. Thí sinh phải đạt 12/20 điểm mới
trúng tuyển”(10). Thông qua hình thức thi tuyển công chức
theo Sắc lệnh 76 và Hướng dẫn số 10 của Bộ Nội vụ, Nhà nước sẽ có được
đội ngũ cán bộ nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, có
tri thức cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng với tinh thần xây
dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Thứ ba, cán bộ phải là người dám phụ trách, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ phải luôn có tinh thần dám phụ
trách, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn cán bộ, đảng
viên “phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”(11).
Thứ
tư, cán bộ phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và
hành động vì sự trong sạch, vững mạnh của nhà nước, của nền công vụ.
Việc thường xuyên tự phê bình và phê bình là nhằm giữ gìn phẩm chất đạo
đức cách mạng và nâng cao năng lực công tác, đồng thời để chăm lo xây
dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. Đồng
thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước phải thực sự liêm khiết. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội
xâm”, là căn bệnh gốc sinh ra thói “quan cách mạng”, quan liêu, tham ô,
lãng phí, ăn cắp của công. Người cho rằng, nếu Đảng, Chính phủ, đồng
bào và chiến sĩ “ra sức chống giặc ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm”
là chưa làm tròn bổn phận của người cách mạng, người yêu nước.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH CHUYÊN NGHIỆP, LIÊM CHÍNH, HIỆN ĐẠI, GÓP PHẦN HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
Nền hành chính nhà nước ở nước ta qua hơn 36 năm đổi mới.
Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có bước đột phá(12).
Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành
chính được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách
hành chính trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá,
xếp loại công tác cải cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà
nước từng bước được tinh gọn từ Chính phủ đến chính quyền địa phương,
nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính phủ số, nền hành chính số
từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện đại. Trình độ của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn với
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Các nguồn lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động...
Cán bộ, công chức Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh
hướng dẫn người dân nộp hồ sơ dịch vụ công trực tuyến. (Nguồn:
baoquangninh.com.vn)
Mặc dù vậy, việc cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước(13),
nhiều hạn chế chậm được khắc phục, như tính đồng bộ chưa cao giữa cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chất lượng thể chế
thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh, chất
lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế, việc tinh giản biên chế có nơi, có chỗ
còn mang tính hình thức, chế độ, chính sách tiền lương chưa có đột phá.
Chính phủ số và nền hành chính số còn phát triển chậm và chưa đồng bộ
giữa các bộ, ngành, địa phương...
Trước
tình hình đó, Đảng ta yêu cầu: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà
nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại,
trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chương trình tổng
thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(14).
Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng,
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây
dựng nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Xây
dựng nền hành chính nhà nước phải trên cơ sở giữ vững được bản chất
giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy
phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền
công dân, chăm lo đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật phải có
tính nhân văn, hướng thiện, vì con người. Công tác xây dựng, cải cách
nền hành chính phải gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm
giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng
với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước,
phát huy vai trò giám sát của nhân dân. Đây là giải pháp mang tính tất
yếu, khách quan để khắc phục những bất cập, hạn chế của nền hành chính.
Từ đó, nâng cao tính chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức, viên
chức để việc cải cách hành chính hướng đến công khai, minh bạch và dân
chủ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là mục tiêu của cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao khả năng phối hợp giữa các cấp,
các ngành để đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động.
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước đòi hỏi
hết sức chú trọng công tác cải cách, kiện toàn bộ máy hành chính nhà
nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực và
có hiệu quả cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện
tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành vi ứng
xử thiếu chuẩn mực với nhân dân, gây bức xúc trong xã hội. Đồng thời,
phải lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân
làm tiêu chí đánh giá quan trọng đối với tổ chức bộ máy và chất lượng
cán bộ, công chức, viên chức.
Bên
cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, chống
các hiện tượng tiêu cực gây phiền hà, mất thời gian, công sức của nhân
dân. Điều đó sẽ góp phần đổi mới, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính nhà nước phải đề cao trách nhiệm
cá nhân trong giải quyết khiếu kiện của công dân đúng quy định của pháp
luật. Cải cách thủ tục hành chính phải được thực hiện một cách quyết
liệt, đồng bộ, hiệu quả, với quyết tâm cao nhằm xóa bỏ các rào cản hạn
chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường
kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.
Thường
xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để
trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng
bước hoàn thiện các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị
trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện
nay.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân.
Xây
dựng nền hành chính nhà nước phải hướng tới giữ vững chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa vì thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn. Chỉ có phát huy dân chủ mới giúp cho cán bộ đề ra
nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công tác. Hơn thế, việc phát huy
dân chủ là để phát huy quyền là chủ và làm chủ của nhân dân theo luật
định. Do đó, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, cải cách và hoàn thiện
nền hành chính phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân và gắn bó chặt
chẽ với quá trình đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững trật tự, kỷ cương, được bảo
đảm bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, khác hoàn toàn với thứ
dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc
quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến
pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã
hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và
công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt,
có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(15).
Xây dựng Luật về đạo đức công vụ và thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức.
Khi đề cập đạo đức công vụ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh đến các chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư; phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao; có ý
chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; chấp hành nghiêm
kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần
thân ái, hợp tác với đồng nghiệp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng Luật về đạo đức
công vụ. Đây là công cụ để điều chỉnh hành vi đạo đức cho cán bộ, công
chức trong quá trình thực thi công vụ, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay và từng
bước tiến tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.
Đồng
thời, trong quá trình cải cách hành chính cần thực hiện nghiêm Luật Cán
bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền công vụ nước nhà, khắc phục
những biểu hiện tiêu cực trong nền hành chính, xây dựng bộ máy hành
chính thành bộ máy phục vụ, kiến tạo, của dân, do dân, vì dân.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước có giá trị to lớn
cả về lý luận và thực tiễn. Từ những tư tưởng chỉ đạo của Người, nền
hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cùng với dân tộc hoàn
thành trách nhiệm lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cả dân tộc kháng
chiến, kiến quốc và xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành
người đặt nền móng cho việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm
chính, hiện đại, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Tư tưởng của Người mãi
soi đường cho việc xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, liêm
chính, hiện đại, phục vụ nhân dân./.
HỒNG THẾ VINH
Học viện Chính trị khu vực III
______________________
(1) (2) (4) (5) (8) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr.3, 7, 175, 175, 504, 21.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.473.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.518.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309.
(10) Công báo Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1/1950): Thông tư số 10-NV2 của Bộ Nội vụ, ngày 20/1/1950.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611-612.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.72.
(13) (14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr. 89-90, 176, 173.
(Nguồn: TC Cộng sản)