Thứ Sáu, 22/11/2024
Nhịp cầu Công Thương
Thứ Bảy, 18/11/2023 16:0'(GMT+7)

Tìm hướng đi cho xuất khẩu thanh long vào thị trường EU

Thanh Long là 1 trong 3 mặt hàng xuất khẩu có thể bước chân vào thị trường EU

Thanh Long là 1 trong 3 mặt hàng xuất khẩu có thể bước chân vào thị trường EU

Những năm gần đây, diện tích thanh long tại Việt Nam mở rộng rất nhanh, đạt khoảng 50.000-60.000 ha. Đầu ra của trái thanh long phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc nên rất dễ xảy ra tình trạng không tiêu thụ được khi có sự cố phát sinh. Đó là chia sẻ của ông Peter Prins - Điều phối viên dự án, tại hội thảo trực tuyến giới thiệu dự án do Công ty TNHH Eurofins Sắc Ký Hải Đăng là thành viên của Tập đoàn kiểm nghiệm đa quốc gia Eurofins Scientific tổ chức gần đây. Ông Peter Prins cũng cho biết: Một phần mục tiêu của dự án là nhằm tháo gỡ khó khăn này và mở rộng khả năng xuất khẩu sang thị trường EU cho trái thanh long tại Việt Nam.

Dự án còn nhằm mục tiêu giúp nông dân canh tác đúng, tạo ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà nhập khẩu EU; kết nối cơ hội kinh doanh giữa nhà nhà nhập khẩu Hà Lan và nhà sản xuất các loại trái cây nhiệt đới tại Việt Nam.

Cây thanh long được người Pháp mang đến Việt Nam từ thế kỷ 19, sinh trưởng và phát triển thuận lợi trong điều kiện khí hậu nhiệt đới có đầy đủ ánh sáng, ở vùng có mùa mưa và mùa khô rõ rệt, đến hết năm 2022, tất cả 63 tỉnh, thành đều trồng thanh long.

Hiện nay ở Việt Nam có hai giống thanh long chủ lực trong sản xuất hiện nay gồm: thanh long vỏ đỏ ruột trắng, thanh long vỏ đỏ ruột đỏ. Trong đó: Giống thanh long vỏ đỏ ruột trắng là giống chủ lực, chiếm 80% diện tích thanh long Bình Thuận; Giống vỏ đỏ ruột đỏ là chủ lực tại tỉnh Long An (97%), Tiền Giang (71%), Đồng Nai (98%).

Tính chung trên phạm vi 3 tỉnh Bình Thuận, Long An, Tiền Giang, cơ cấu giống thanh long như sau: Giống vỏ đỏ ruột trắng: khoảng 55%, giống vỏ đỏ ruột đỏ: khoảng 40%; giống khác (ruột tím hồng, vỏ vàng,...): 5%.

Các doanh nghiệp cần cung cấp thông tin thị trường, để người sản xuất, các địa phương chuyển đổi cơ cấu giống phù hợp hơn theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

THANH LONG HIỆN XUẤT KHẨU VÀO 40 NƯỚC VÀ VÙNG LÃNH THỔ

Đến nay, Việt Nam là một trong những nước có diện tích và sản lượng thanh long hàng đầu châu Á. Thanh long hiện xuất khẩu vào 40 nước và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường tiêu thụ chính là các nước châu Á. Ngoài thị trường châu Á, trong thời gian tới, để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU - thị trường quy định rất nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật, người sản xuất,  doanh nghiệp và các địa phương cần có giải pháp tổ chức sản xuất đồng bộ.

Về hiện trạng, tiềm năng và một số giải pháp liên quan đến sản xuất thúc đẩy xuất khẩu thanh long sang thị trường EU:

Năm 1995,  cả nước mới có 2,3 nghìn hecta thanh long, sản lượng 22,8 nghìn tấn. Đến năm 2022, diện tích thanh long nước ta đạt 54,8 ngàn hecta, năng suất 243,7 tạ/ha, sản lượng 1.285,9 nghìn tấn, trong đó: Vùng Trung du miền múi phía Bắc diện tích thanh long 2,1 nghìn hecta, sản lượng 16,8 nghìn tấn; Bắc Trung Bộ diện tích thanh long 1,1 nghìn hecta, sản lượng khoảng 11,5 nghìn tấn; Duyên hải Nam Trung Bộ có diện tích thanh long lớn nhất 28 nghìn hecta, sản lượng đạt 595,1 nghìn tấn, trong đó tập trung chủ yếu ở tỉnh Bình Thuận, diện tích 27,8 nghìn hecta, sản lượng 594 ngàn tấn; Tây Nguyên có diện tích thanh long 996 ha, sản lượng 10,3 nghìn tấn; Đông Nam Bộ có diện tích thanh long 19,1 nghìn hecta, sản lượng 37,1 nghìn tấn; Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích thanh long 19,1 nghìn hecta, sản lượng 598,9 nghìn tấn, tập trung chủ yếu ở Long An (diện tích 8,3 nghìn hecta, sản lượng 262,8 ngàn tấn), Tiền Giang (diện tích 9 nghìn hecta, sản lượng 307,5 nghìn tấn).

Như vậy, cây thanh long đã hình thành vùng sản xuất hành hóa tập trung tại 2 vùng là Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó chủ yếu ở 3 tỉnh là Bình Thuận, Long An và Tiền Giang, thuận lợi cho tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn phục vụ xuất khẩu, trong đó có thị trường EU.

Để phát triển sản xuất thanh long bền vững, đảm bảo năng suất, chất lượng, sản xuất an toàn thực phẩm, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, trong đó có thị trường EU, các địa phương và doanh nghiệp cần tiếp tục chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người sản xuất áp dụng, như: Quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh đốm nâu (Neoscytalidium dimidiatum) thanh long (Quyết định số 3281/QĐ-BVTV-KH ngày 27/11/2018); Quy trình kỹ thuật canh tác thanh long kiểu giàn chữ T (T-bar) cho áp dụng tại các tỉnh phía Nam (Quyết định số 1304/QĐ-TT-CCN ngày 24/9/2019); Quy trình kỹ thuật sử dụng đèn LED.TL-T60 WFR/9W điều khiển ra hoa thanh long tại khu vực phía Nam (Quyết định số 150/QĐ-TT-CCN ngày 04/8/2020); Quy trình quản lý cây trồng tổng hợp sản xuất trái thanh long (ICM) cho các vùng trồng chính (Quyết định số 328/QĐ-TT-VPPN ngày 18/12/2020).

Hiện nay, Bình Thuận có có 12,4 nghìn hecta được cấp giấy chứng nhận VietGAP, 560 ha được cấp Giấy chứng nhận GlobalGAP. Tại Tiền Giang, diện tích sử dụng các chế phẩm sinh học chiếm 60 - 70% diện tích trồng thanh long, có 2.388 ha thanh long được chứng nhận đạt tiêu chuẩn GAP.

Các địa phương và doanh nghiệp xuất khẩu thanh long cần tiếp tục hướng dẫn người sản xuất áp dụng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt để đảm bảo an toàn thực phẩm phục vụ xuất khẩu thanh long sang thị trường EU.

Quy trình kỹ thuật xử lý ra hoa trái vụ cho cây thanh long cho các tỉnh Nam Bộ (Quyết định số 261/QĐ-TT-VPPN ngày 27/12/2021).

Các địa phương cần tiếp tục tổ chức tốt sản xuất rải vụ thu hoạch thanh long nhất là vùng Nam Bộ, coi đây là phương thức sản xuất quan trọng, tạo điều kiện giảm áp lực tiêu thụ tập trung vào chính vụ, góp phần tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm thanh long của nước ta với các nước xuất khẩu thanh long, trong đó có thị trường EU.

THÁCH THỨC THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY ĐỐI VỚI THANH LONG

Yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP), mẫu mã thanh long quả tươi xuất khẩu ngày càng nghiêm ngặt trong khi quy mô sản xuất nhỏ lẻ của nông dân là chủ yếu, tổ chức liên kết còn yếu, chưa hiệu quả nên khó khăn trong kiểm soát chất lượng, ATTP.

Biến đổi khí hậu; sự phát sinh, phát triển của nhiều loại sâu bệnh hại cùng với giá vật tư phân bón tăng cao ảnh hưởng đến đầu tư sản xuất, giá thành, ATTP và sức cạnh tranh.

Liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và người dân chưa bền vững, chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia vào chuỗi liên kết để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường lớn, khó tính.

Hệ thống cơ sở sơ chế, đóng gói và kho bảo quản tiên tiến, sản phẩm chế biến sâu còn thiếu, hạn chế về công nghệ.

Dự báo thị trường tiêu thụ thanh long chính của Việt Nam vẫn là Trung Quốc, thị trường này đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao khi xuất khẩu chính ngạch.

Bên cạnh đó, vài năm trở lại đây, diện tích trồng thanh long ở Trung Quốc tăng "thần tốc" và chạm mốc 67.000 ha, sản lượng khoảng 1,6 triệu tấn vào năm 2021 (vượt so với Việt Nam), cùng với mức tăng sản lượng thanh long của nhiều nước khác (Thái Lan, Philippines, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc,...) nên sẽ ảnh hưởng lớn đến nhập khẩu thanh long từ Việt Nam.

Xuất khẩu thanh long Việt Nam sang các thị trường mới (Ấn Độ) và các thị trường khó tính (Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, châu Mỹ…) cũng như tiêu dùng trong nước và công nghiệp chế biến tăng trưởng không cao.

Do vậy, dự báo thị trường thanh long sẽ gặp khó khăn trong thời gian tới nếu Việt Nam tiếp tục tăng diện tích thanh long và chất lượng thanh long không đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu.

CÁC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA THANH LONG

Khoảng 80 - 85% sản lượng thanh long được xuất khẩu, 15 - 20% tiêu thụ trong nước.

Gía trị xuất khẩu (GTXK) thanh long Việt Nam liên tục tăng, từ  57,15 triệu USD năm 2010 lên trên 100 triệu USD năm 2011 và vượt mốc 1 tỷ USD từ năm 2017 đến năm 2020. Đồng thời, thanh long chiếm tỷ trọng chủ yếu, trên 30% GTXK ngành rau quả liên tục từ năm 2015 - 2020.

Từ năm 2021 đến nay, GTXK thanh long có xu hướng giảm, đạt dưới 1 tỷ USD và chỉ chiếm dưới 30% GTXK rau quả; 7 tháng đầu năm 2023, giá trị xuất khẩu đạt 396,3 triệu USD, bằng 12,8% tổng GTXK rau quả.

Thị trường xuất khẩu truyền thống, lớn nhất là Trung Quốc; kế đến là Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia; gần đây, chúng ta đã mở mới thị trường khó tính đầy tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Úc.

Đối với thị trường Trung Quốc: với trên 1 tỷ USD và chiếm trên 92% GTXK thanh long hàng năm từ năm 2018 - 2020; trong 7 tháng đầu năm 2023 đạt 328,5 triệu USD (gần 83%);

Đối với thị trường EU, GTXK thanh long Việt Nam không lớn: năm 2018 đạt 7,97 triệu USD (0,67%), năm 2019 đạt 10,68 triệu USD (0,85%), năm 2020 đạt 9,53 triệu USD (0,86%). 7 tháng đầu năm 2023 đạt 5,13 triệu USD (1,29%), trong đó Hà Lan là quốc gia nhập khẩu thanh long Việt Nam nhiều nhất với 3,9 triệu USD (76,02% GTXK thanh long vào EU), tiếp đến là Pháp, Đức (14,2% và 8,4%).

Việt Nam có điều kiện đất đai, khí hậu phù hợp cho phát triển sản xuất thanh long hàng hóa. Thanh long Việt Nam được đánh giá cao về mẫu mã, chất lượng, có lợi thế sản xuất rải vụ thu hoạch nhờ áp dụng kỹ thuật chong đèn, cho thu hoạch quanh năm, tăng khả năng cạnh tranh;

Sản xuất thanh long đã hình thành được các vùng tập trung, tạo điều kiện áp dụng TBKT, tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm;

Việt Nam thuộc nhóm nước đứng đầu thế giới về diện tích, sản lượng và xuất khẩu thanh long, chiếm thị phần cao nhất ở châu Á (đặc biệt là Trung Quốc), châu Âu và một số thời điểm tại Hoa Kỳ; Cơ hội mở rộng thị trường với các FTA được nước ta tham gia ký kết.

Kiểm soát dư lượng thuốc BVTV tại EU là một trong những tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất thế giới, danh mục kiểm soát khác với các thị trường khác, kết hợp với tiêu chuẩn riêng từ nhà nhập khẩu là những thách thức lớn. Riêng đối với trái thanh long, quy định EC No396/2002 yêu cầu kiểm nghiệm tối thiểu 510 hoạt chất, trong đó có 332 hoạt chất đang sử dụng ngưỡng MRL (dư lượng tối đa cho phép) ở dạng mặc định là 0.01mg/kg. Trong đó, có 3 nhóm hoạt chất được tăng cường quan tâm, kiểm soát và đặc biệt quan tâm là Dithiocarbamate, Phenthoate, Quinalphos.

Dù có rất nhiều thách thức, thị trường EU không chỉ Hà Lan mà các nước thuộc Tây Âu, Đông Âu cũng có tiềm năng xuất khẩu lớn cho trái thanh long của Việt Nam. So với nhiều thị trường, EU đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao. Đại đa số khách hàng yêu cầu đáp ứng Global GAP, CSR, yêu cầu về kiểm nghiệm, chứng thư y tế... Tuy nhiên, hàng rào tiêu chuẩn tại EU không phải để ngăn khả năng tăng xuất khẩu của thanh long cũng như nông sản Việt Nam mà mở ra cơ hội cùng phát triển, xuất khẩu bền vững khi các nhà sản xuất tại Việt Nam đáp ứng đúng yêu cầu. Do vậy, có 3 điểm nhà sản xuất thanh long Việt Nam cần chú ý, trong đó, phải tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, điểm chính là kiểm soát dư lượng thuốc BVTV; ổn định chất lượng sản phẩm; có chương trình cung ứng đáng tin cậy, không bị ngưng khi đã ký thoả thuận cung ứng dài hạn...

Dự án “Nâng cao chất lượng cây ăn quả nhiệt đới Việt Nam” triển khai đến tháng 3/2024, hỗ trợ cho 4 tỉnh của Việt Nam gồm Bình Thuận, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp nâng cao chất lượng 3 loại trái cây thanh long, xoài, bưởi da xanh để có thể xuất khẩu sang thị trường EU. 

Tuấn Anh - Thu Hằng

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất