Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã hiến dâng trọn vẹn cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Tài năng và phẩm chất cách mạng kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản Hà Huy Tập là tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Việt Nam học tập và noi theo.
1. Hà Huy Tập sinh ngày 24/4/1906 sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo tại làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân sinh là cụ Hà Huy Tường đỗ cử nhân nhưng trước cảnh nước mất, nhà tan và cuộc sống cơ cực của người dân quê hương, ông không ra làm quan mà ở nhà dạy học và bốc thuốc giúp con trẻ biết chữ và chữa bệnh cho dân làng. Thân mẫu Hà Huy Tập là bà Nguyễn Thị Lộc, một nông dân tần tảo nuôi chồng, thương con; cả cuộc đời gắn bó với đồng ruộng quê hương, sống hòa thuận với bà con làng xóm.
Hà Huy Tập lúc nhỏ tên là Hà Huy Khiêm, còn gọi là Ba. Từ năm 1910 đến 1919 học chữ nho tại quê nhà và học tiểu học tại Thị xã Hà Tĩnh. Sau khi học hết bậc tiểu học, năm 1919, ông thi vào trường Quốc học Huế. Năm 1923, Hà Huy Tập tốt nghiệp trường Quốc học Huế với tấm bằng hạng ưu. Nhưng vì gia đình nghèo không đủ điều kiện để học tiếp ở bậc cao hơn, Hà Huy Tập về dạy tại trường tiểu học ở thị xã Nha Trang (nay là trường THPT Nguyễn Văn Trỗi) cho đến năm 1926, sau đó chuyển về dạy trường tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh, Nghệ An). Những năm tháng này cũng chính là thời gian Hà Huy Tập đọc nhiều sách báo; thấy được nỗi thống khổ của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và luôn trăn trở phải làm sao để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Lòng yêu nước và sự trăn trở đó đã thúc giục người thanh niên yêu nước Hà Huy Tập bước vào cuộc đấu tranh cách mạng với cả bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Cuối năm 1925, Hà Huy Tập gia nhập Hội Phục Việt và luôn là một trong những người xả thân cho những hoạt động của Hội. Trong thời gian ở Vinh, ngoài việc dạy học ở trường Cao Xuân Dục, Hà Huy Tập còn đến các xóm thợ Trường Thi - Bến Thủy, các làng, xã quanh Vinh để tìm hiểu tình hình và xây dựng cơ sở Hội Phục Việt. Những hoạt động tích cực cụ của Hà Huy Tập đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở Nghệ An và Hà Tĩnh; đồng thời cũng dẫn đến việc Công sứ Vinh lệnh cho Đốc học Vinh cách chức giáo viên đối với Hà Huy Tập.
Trước tình hình đó, tháng 3/1927, Hà Huy Tập rời Vinh vào Sài Gòn. Ở đây, Hà Huy Tập xin vào dạy học tại trường tiểu học tư thục mang tên An Nam học đường ở Gia Định. Cũng trong thời gian ở Sài Gòn, Hà Huy Tập đã tổ chức thành công nhiều cuộc bãi khóa của học sinh, chống lại chế độ giáo dục thực dân của nhà trường. Biết trước sau kẻ địch cũng dò ra tung tích của mình, nên Hà Huy Tập hết sức cảnh giác, liên tục thay đổi chỗ ở, nhờ đó đã trụ được ở Sài Gòn một thời gian.
Tháng 1/1928, Hội Hưng Nam (tên mới của Hội Phục Việt) tổ chức Hội nghị toàn quốc tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, Hà Huy Tập dự Hội nghị này với tư cách Bí thư Kỳ bộ Nam Kỳ. Hội nghị bàn về việc hợp nhất Hội Hưng Nam với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Rời Hà Tĩnh, Hà Huy Tập trở lại Sài Gòn và hoạt động ngày càng tích cực. Những hoạt động của Hà Huy Tập bị nhà chức trách theo dõi. Tháng 6/1928, Hiệu trưởng An Nam học đường có quyết định đình chỉ việc giảng dạy của Hà Huy Tập với lý do kích động học sinh nhiều lần bãi khóa. Sau đó, Hà Huy Tập xin vào làm việc ở một hiệu buôn đến tháng 8/1928, Hà Huy Tập rời khỏi hiệu buôn đến Bà Rịa xin vào làm việc ở đồn điền trồng mía Phú Mỹ. Trong thời gian này, Hà Huy Tập đã vận động thành lập được chi bộ Đảng trong công nhân do ông làm Bí thư.
Tháng 12/1928, Hà Huy Tập được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) để tham gia khóa huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Ấn tượng mạnh với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tác phẩm Đường Cách Mệnh, Hà Huy Tập tích cực hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Ngày 19/7/1929, Hà Huy Tập sang Liên Xô, học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva với bí danh là Xinhitrơkin. Cuối năm 1929, được kết nạp vào Đảng Cộng sản liên bang (bônsêvích) và tháng 3/1932, Hà Huy Tập tốt nghiệp trường Đại học Phương Đông và ở lại Liên Xô hoạt động.
Trong thời gian ở Liên Xô, Hà Huy Tập viết cuốn sách “Sơ thảo lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương” bằng tiếng Pháp gồm ba phần, chia thành 10 chương. Đây là tác phẩm đầu tiên viết về lịch sử hình thành, quá trình xây dựng, phát triển và sự lãnh đạo đấu tranh của Đảng ta từ đầu cho đến tháng 3/1933. Như lời viết ở đầu sách: “Hy vọng có thể phục vụ cho các đảng viên trẻ và công nhân cách mạng để họ có thể hiểu Đảng chúng ta, tránh những sai lầm và rút ra những kinh nghiệm bổ ích trong ba năm đấu tranh anh hùng của quần chúng lao động Đông Dương và người lãnh đạo họ, Đảng Cộng sản Đông Dương"[1], cuốn sách nêu bật lịch sử đấu tranh oanh liệt của quần chúng công nông, vai trò và uy tín của đảng viên cộng sản, rút ra những bài học về phương pháp đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ địch. Có thể nói, sự xuất hiện kịp thời của tác phẩm đã góp phần tuyên truyền, nêu cao truyền thống đấu tranh anh dũng của Đảng, chống lại các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, đem lại niềm tự hào, niềm tin cho quần chúng cách mạng ở thời điểm cách mạng đang gặp nhiều khó khăn.
Giữa năm 1933, Hà Huy Tập bí mật về Trung Quốc, bắt liên lạc với Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và một số đồng chí khác lập ra Ban Chỉ huy ở ngoài, do Lê Hồng Phong làm thư ký; Hà Huy Tập làm ủy viên phụ trách tuyên truyền cổ động và Tổng Biên tập tạp chí Bônsơvích. Nhiệm vụ trọng tâm của Ban là khôi phục lại các tổ chức Đảng trong nước bị địch phá vỡ sau cao trào cách mạng 1930-1931 và chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
Sau một thời gian chuẩn bị, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất đã họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27- 31/3/1935. Hà Huy Tập chủ trì và đọc Báo cáo chính trị của Đại hội. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Trung ương gồm 5 người, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, đồng chí Hà Huy Tập làm Thư ký Ban Chỉ huy ở ngoài. Thời gian này do đồng chí Lê Hồng Phong bận đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, trọng trách lãnh đạo cách mạng do Hà Huy Tập đảm nhiệm. Tháng 7/1936, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đã phân công Hà Huy Tập về nước tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương mới và khôi phục các tổ chức Đảng trong nước. Ngày 12/10/1936, Hà Huy Tập triệu tập Hội nghị cán bộ để bầu Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Tại Hội nghị này, Hà Huy Tập chính thức được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Trong thời gian làm Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Hà Huy Tập đã tận dụng thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại, tích cực lăn lộn trong phong trào quần chúng, móc nối với các tổ chức Đảng trong nước, sớm hình thành được Ban Chấp hành Trung ương. Triệu tập và chủ trì ba Hội nghị Trung ương (3/1937, 9/1937 và 3/1938), Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã góp phần tổng kết tình hình, đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo và cùng với tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thử thách, đưa phong trào tiến lên những bước mới.
2. Vốn là người say mê nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, lại được đào tạo tại Đại học Phương Đông, Hà Huy Tập đã đánh giá đúng mức vai trò lịch sử của tác phẩm Đường Cách mệnh do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo trong giai đoạn đầu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và đó được coi như “là sách phúc âm đối với tất cả mọi đảng viên; họ đã học gần như thuộc lòng”[2]. Hà Huy Tập cũng đã sớm khẳng định địa vị lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với cách mạng Việt Nam khi khẳng định: “Sau khi Quốc dân Đảng thất bại trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, còn lại một mình Đảng Cộng sản Đông Dương trên vũ đài cách mạng, cho nên chỉ có Đảng là người tổ chức quần chúng đấu tranh... Đảng ta đã đóng một vai trò tiền phong lớn lao trong phong trào cách mạng… Đảng đã đấu tranh chinh phục và giữ vững bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong phong trào”[3].
Đã từng là Tổng biên tập tạp chí Bônsơvích, Hà Huy Tập thấu hiểu vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng, nên ngay khi trở lại Sài Gòn, đồng chí đã tập trung mọi nỗ lực chỉ đạo mở rộng các hoạt động tuyên truyền, cổ động thông qua các báo chí công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng tới đảng viên và quần chúng. Trong điều kiện Đảng ta còn phải hoạt động trong sự kiểm soát của chính quyền thực dân, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã cho ra đời tờ báo bằng tiếng Pháp L'Avant Garde (Tiền phong, ra đời ngày 29/5/1937 tại Sài Gòn) với danh nghĩa là cơ quan của lao động và nhân dân Đông Dương, thực chất là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương. Với Tuyên ngôn mang tiêu đề Hội những người lao động, những người bị áp bức ở Đông Dương, Hà Huy Tập đã khẳng định rõ mục đích của tờ báo và đó cũng là cơ quan ngôn luận đầu tiên của Trung ương Đảng được ra hoạt động công khai. Nội dung tờ báo rất phong phú, phản ánh khá toàn diện những vấn đề nóng bỏng của phong trào cách mạng Đông Dương trong cuộc đấu tranh đòi tự do, cơm áo và hoà bình. Đặc biệt, tờ báo rất quan tâm đến tuyên truyền đường lối của Đảng và cuộc đấu tranh chống bọn Tờrốtxkít.
Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, trực tiếp chỉ đạo phong trào Đông Dương Đại hội thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Hà Huy Tập đã lãnh đạo cuộc tiến công trên mặt trận lý luận, báo chí nhằm vạch mặt bọn đội lốt cách mạng "cực tả" tờrốtxkít phá hoại cách mạng. Tháng 5/1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập với bút danh Thanh Hương đã viết Tờrốtxkít và phản cách mạng được Tiền Phong thư xã xuất bản ở Sài Gòn. Cuốn sách của Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã góp một phần rất quan trọng vào cuộc tranh luận, nhằm đập tan các luận điệu phản động của bọn cách mạng đầu lưỡi, bọn giả danh cách mạng, đưa tư tưởng và lý luận chân chính của Đảng đến với quần chúng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương. Trong năm 1937, cũng với bút danh Thanh Hương, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã xuất bản cuốn sách Vì sao phải ủng hộ Mặt trận bình dân Pháp. Tiếp đó, ngày 24/9/1937, báo Le Peuple (Nhân dân) – cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng ra số đầu tiên, Hà Huy Tập tiếp tục là Tổng Biên tập. Sự ra đời của báo L'Avant- Garde và Le Peuple bằng tiếng Pháp với chức năng là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng là một cố gắng lớn của Đảng ta, trong đó có đóng góp to lớn của Tổng Bí thư, Tổng Biên tập Hà Huy Tập.
Những tờ báo đó cùng những bài viết của Tổng Bí thư Hà Huy Tập thời kỳ này đã góp phần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, cổ động của Đảng và là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự ra đời một số tờ báo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt theo xu hướng tiến bộ, ủng hộ cách mạng xuất hiện sau đó. Đó là kết quả rất đáng tự hào về sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, trong đó có sự đóng góp to lớn của nhà lý luận sắc sảo Hà Huy Tập.
3. Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938, Tổng Bí thư Hà Huy Tập bị địch bắt do có chỉ điểm và đưa về giam ở Khám lớn, Sài Gòn. Ngày 24/5/1938, phiên tòa tiểu hình tại Sài Gòn xét xử Hà Huy Tập đã tuyên án 2 tháng tù giam và 5 năm cấm cư trú tại Nam Kỳ, trục xuất về quê quản thúc. Ngày 30/3/1940, Hà Huy Tập bị bắt lại và đưa vào Nam Kỳ để xét xử. Thời điểm này, nổ ra cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, nên ngay sau đó, thực dân Pháp thẳng tay bắt bớ, giam cầm và sát hại nhiều đồng chí, đồng bào ta. Ngày 3/4/1941, Tòa án binh Sài Gòn đưa Hà Huy Tập và những người chúng bắt được trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ ra xét xử và tuyên án tử hình, giam ở xà lim chém. Ngày 25/10 năm đó, Hà Huy Tập bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam và ngày 28/8/1941, ông bị chính quyền Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác như: Nguyễn Hữu Tiến, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai… Bức thư cuối cùng ông gửi cho gia đình viết: “Nếu tôi phải bị chết… thì gia đình và bạn hữu chớ xem tôi như là người chết mà phải buồn; trái lại, nên xem tôi như là người còn sống, nhưng đi vắng một thời gian vô hạn… mà thôi”.
Trong khoảng 16 hoạt động cách mạng đến lúc hy sinh: Hà Huy Tập đã từ nhà yêu nước trở thành nhà cách mạng, từ người cộng sản trở thành Tổng Bí thư của Đảng. Trong tù, dù đã dùng những thủ đoạn dã man nhất để tra tấn nhưng cuối cùng kẻ thù cũng phải khuất phục trước tinh thần gang thép, kiên trung, bất khuất của người cộng sản Hà Huy Tập. Trước tòa án của thực dân Pháp, Tổng Bí thư đã khảng khái nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống, tôi tiếp tục hoạt động”. Ý chí, nghị lực, bản lĩnh cách mạng của đồng chí Hà Huy Tập - Tổng Bí thư thứ ba của Đảng ta đã nêu tấm gương sáng, cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng cho các chiến sĩ cộng sản và các tầng lớp nhân dân trong hành trình đấu tranh vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất và ngày càng phát triển.
Tổng Bí thư Hà Huy Tập thuộc thế hệ những người cộng sản đầu tiên, cốt cán của Đảng và tuy thời gian hoạt động cách mạng không dài, nhưng Hà Huy Tập đã sống một cuộc đời cách mạng sôi nổi và vinh quang - đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã để lại cho Đảng những bài học quí báu cả về lý luận và thực tiễn hoạt động cách mạng. Qua đời từ khi mới 35 tuổi nhưng tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường; một người lãnh đạo tận tụy, năng động; một cây bút lý luận xuất sắc của Đảng thập niên 1930; người đã chiến đấu đến giây phút cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho lý tưởng cộng sản của Tổng Bí thư Hà Huy Tập cùng bao anh hùng, liệt sĩ mãi mãi in đậm trong trái tim, khối óc mỗi người dân đất Việt.
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Hà Huy Tập (24/4/1906 - 24/4/2016) là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại truyền thống quý báu của Đảng, hiểu rõ hơn về tấm gương chiến đấu, hy sinh và những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng và quê hương của một người cán bộ ưu tú của Đảng. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Tổng Bí thư Hà Huy Tập là học tập và làm theo những phẩm chất đạo đức cách mạng; sự nhiệt huyết, đầy sáng tạo trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn; sự kiên trung, bất khuất, tinh thần cách mạng tiến công trước kẻ thù, nguyện đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu để biến khát vọng và niềm tin của Tổng Bí thư về một nước Việt Nam độc lập, tự do, văn minh và giàu mạnh trở thành hiện thực sinh động./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
------------------
[1] Hồng Thế Công: Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương. Xem Hà Huy Tập – Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.179.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1999, t.4, tr.366.
[3] Hồng Thế Công: Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương. Xem Hà Huy Tập – Một số tác phẩm, Sđd, tr.292.