(TG)-Đấu tranh ngoại giao quốc phòng là tổng thể các hoạt động đấu tranh trên mặt trận ngoại giao nhằm góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ngăn ngừa, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh xâm lược, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng phát triển đất nước.
Với thắng lợi của trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 938, nước ta đã giành lại được nền độc lập tự chủ. Ngay từ những buổi đầu, để giữ vững nền độc lập, tự chủ của đất nước, ngăn ngừa, giảm thiểu nguy có xâm lược, xâm lấn lãnh thổ của phong kiến phương Bắc, các triều đình phong kiến tự chủ ở nước ta đã tích cực, chủ động và khôn khéo tìm cách quan hệ bang giao hòa hiếu nhưng luôn thực hiện nguyên tắc bất biến là giữ vững độc lập, chủ quyền thực sự và toàn vẹn lãnh thổ với các triều đình phong kiến phương Bắc.
Thời Tiền Lê, Lê Hoàn thi hành chính sách ngoại giao linh hoat, khôn khéo nhưng liên quyết. Chẳng hạn để răn đe, ngăn chặn ý định xâm lược của chúng bằng cách phô trương sức mạnh phòng bị của Đại Cồ Việt, khi đón tiếp sứ thần nhà Tống là Tống Cảo và Vương Ích Tắc ở trại Nại Chính, Trường Châu, Hoa Lư, Lê Hoàn cho “bày thủy quân và chiến cụ để khoe”. Để ngăn ngừa các hoạt động do thám nhằm xâm lược nước ta của nhà Tống, Lê Hoàn khéo léo đề nghị: “Sau này nếu có quốc thư thì nên giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa”[1]. Sau đó, “Cảo về tâu, vua Tống bằng lòng”[2]. Năm 997, nhân khi vua Tống băng hà và việc nhà Tống phong cho Lê Hoàn làm Nam Bình Vương, vua Lê Hoàn sai sứ sang Tống đáp lễ, trước hành động đó của Lê Hoàn, vua Tống đã “ban chiếu thư khen ngợi”[3]. Cũng nhờ phong cách ứng xử biết người, biết mình của Lê Hoàn mà nhà Tống đã thay đổi chính sách đối ngoại theo hướng có lợi cho nước ta. Đó là, nếu trước kia sứ Tống thường mượn cớ để yêu cầu nước ta cống nạp thì khi Tống Chân Tông lên ngôi, biết hành động đáp lễ của Lê Đại Hành như vậy, nên mỗi khi có quốc thư, hay ban chiếu đối với Đại Cồ Việt, nhà Tống “chỉ sai quan giữ biên giới đến nhận mệnh, không sai người sang sứ nữa”[4]. Đây là các hoạt động đấu tranh ngoại giao quốc phòng thời Tiền Lê thông qua quy định, luật lệ và được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp phong phú với thái độ mềm mỏng mà không yếu ớt đã làm đối phương phải tôn trọng, hợp tác với ta, nhờ đó ngăn chặn được các hành động phá hoại giữ yên bờ cõi.
Thời nhà Lý, việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và độc lập, tự chủ của dân tộc được quan tâm thường xuyên. Trước mưu toan mở rộng lãnh thổ của nhà Tống, triều đình nhà Lý luôn cảnh giác với nguy cơ xâm lược từ phương bắc. Nhà Lý kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo bằng việc chủ động cử sứ giả sang Tống cầu phong, xin kinh Đại tạng, chấp nhận cống nạp và là phiên thần. Ngoài bang giao chính thức thông qua các sứ bộ, còn có các giao dịch khác, nhất là hoạt động buôn bán, trao đổi ở khu vực biên giới. Điển hình là khi đấu tranh ngoại giao để đòi lại đất Quảng Nguyên, Tô Mậu, năm 1078, Lý Nhân Tông đã sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần. Đáp lại thịnh tình này, “năm 1079 nhà Tống đem Thuận Châu trả cho nhà Lý”[5] (nhà Tống đổi tên Quảng Nguyên thành Thuận Châu). Theo đó, năm 1081, Lý Nhân Tông trả cho nhà Tống số dân và lính bị bắt. Năm 1084, Lý Nhân Tông “sai lang bộ binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng người Tống bàn việc cương giới. Định biên giới, nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3 động”[6]. Với sự kiện này, người Tống cho rằng, vì tham voi Giao Chỉ mà nhà Tống bỏ mất vàng Quảng Nguyên. Như vậy, cùng với sức mạnh nội tại và chiến lược ngoại giao khôn khéo, về sau quan hệ giữa nhà Lý và nhà Tống bớt căng thẳng hơn và nhà Tống phải từ bỏ ý định xâm chiếm Đại Việt.
Thời nhà Trần, mặc dù đã một lần đánh thắng quân Tống xâm lược, ba lần đánh thắng đế quốc Nguyên - Mông, bảo vệ vững chắc biên cương phía bắc, nhiều lần đánh thắng và đẩy lùi hiểm họa xâm lược từ phía tây và phía nam, đã tạo được thế và lực vững chắc cho đất nước, nhưng Đại Việt vẫn thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, nhượng bộ có nguyên tắc với nhà Nguyên để ngăn ngừa âm mưu tái chiến tranh xâm lược nước ta, tạo môi trường hòa bình, ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững nhà Trần trong 175 năm.
Thời Lê Sơ, sau khi đánh bại quân xâm lược nhà Minh, để ngăn ngừa chiến tranh tái diễn, Lê Lợi đã mở vòng vây, tha tù binh, cấp thuyền bè, lương thực cho binh lính nhà Minh an toàn về nước. Đồng thời nhà Lê đã thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao không khéo buộc nhà Minh công nhận nền độc lập, tự chủ của nước Đại Việt và giải quyết hậu quả chiến tranh. Trước hành động xâm lấn lãnh thổ biên giới của nhà Minh, vua Lê Thánh Tông chủ trương hòa hiếu để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Điển hình là: năm 1467, tướng Lý Lân của nhà Minh xâm lấn châu Hạ Lang, Cao Bằng, vua Lê Thánh Tôngđã sử dụng biện pháp hòa đàm bằng cách: “gửi thư cho Lân hỏi duyên do đem quân xâm lược”[7]. Tuy mềm dẻo, linh hoạt trong biện pháp, song hoạt động đấu tranh ngoại giao quốc phòng thời này luôn kiên trì và kiên quyết thực hiện nguyên tắc bất biến, đó là khẳng định và giữ vững toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Năm 1473, khi giao nhiệm đi sứ, vua Lê Thánh Tông dặn sứ giả: “Một thước núi một tấc sông của ta không nên vứt bỏ, ngươi kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian”[8].
Thời nhà Tây Sơn, mặc dù đã đánh tan hơn 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, Nguyễn Huệ vẫn chủ trương giải hòa với nhà Thanh để xoa dịu và ngăn ngừa âm mưu phục thù của chúng. Ông đã cử người đóng giả mình sang chầu vua Mãn Thanh và thực hiện nhiều hoạt động đấu tranh ngoại giao quốc phòng khác. Từ đó buộc nhà Thanh công nhận độc lập của nước Nam; bỏ lệ cống người, vàng, đòi lại được 7 châu xứ Hưng Hóa bị nhà Thanh chiếm đoạt; buộc nhà Thanh phải thay đổi cách nhìn về vị thế nước Nam, tôn trọng chủ quyền và văn hóa Việt Nam trong quan hệ giữa hai nước[9].
Thời nhà Nguyễn sau này, cũng đã tiến hành đấu tranh ngoại giao quốc phòng buộc nhà Thanh công nhận quốc gia độc lập, có chủ quyền, công nhận quốc hiệu tự đặt là “Việt Nam” thay cho An Nam quốc trước đây, bảo vệ lãnh thổ miền biên giới và trên biển. Đặc biệt, những hoạt động đối nội thời kỳ này, như việc vua nhà Nguyễn cử các đội quân, dân đi khai phá đảo hoang, thu lượm các sản vật và thực hiện quyền quản lý trên thực tế với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - khi ấy còn là đảo hoang vô chủ - cũng có tác dụng đấu tranh đối ngoại quốc phòng. Nhờ việc làm này mà chủ quyền của Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu địa lý, lịch sử… trên thế giới đã ghi nhận trong các tấm bản đồ có chú thích rõ Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Bên cạnh đó là các ấn bản triều Nguyễn về việc cử người đi trông giữ và quản lý hai quần đảo này (hiện ta vẫn còn lưu giữ được) là bằng chứng lịch sử không thể chối cãi về chủ quyền của Việt Nam trong thời gian sau này và trong công cuộc đấu tranh ngoại giao quốc phòng hiện nay nhằm bảo vệ chủ quyền của nước ta với hai quần đảo này.
Từ những vấn đề trên cho thấy, trong mối quan hệ quốc tế, trước hết là với lân bang, các nhà nước phong kiến Việt Nam đã tỏ ra biết mình, biết người, hiểu thời, biết thế. Do đó, đã thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt, đúng đắn, phù hợp đối với từng đối tượng và thời thế: kiên trì, mềm dẻo, nhún nhường, nhượng bộ có điều kiện khi đối phương quá mạnh; khoan hòa, linh hoạt nhưng nghiêm khắc khi ta đã mạnh. Sự kết hợp giữa củng cố sức mạnh nội tại với chính sách đối ngoại linh hoạt, khôn khéo đã đem lại hiệu quả to lớn: bảo vệ vững chắc độc lập, giữ vững hòa bình để xây dựng đất nước, củng cố, tăng cường sưc mạnh phòng thủ. Vì vậy, trước nạn ngoại xâm thường xuyên đe dọa, nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực sự huy động tiềm lực của toàn dân, tập hợp lực lượng cả nước chống giặc, tranh thủ tối đa cơ hội bang giao hòa hiếu với lân bang, từ đó, bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ. Đây là minh chứng cho tính ưu việt và hiệu quả của công cuộc đấu tranh ngoại giao quốc phòng của cha ông ta thời kỳ phong kiến.
Thời gian gần đây, hoạt động đấu tranh ngoại giao quốc phòng của Việt Nam tập trung vào việc phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và đấu tranh yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan này ra khỏi vùng biển này của Việt Nam, trước khi hai nước ngồi vào bàn đàm phán. Đồng thời kêu gọi các tổ chức quốc tế, các chính phủ, các học giả, luật gia và công luận quốc tế phản đối việc làm vi phạm luật pháp quốc tế này của Trung Quốc.
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc hiện nay thiết nghĩ cần vận dụng sáng tạo kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao quốc phòng của cha ông ta từ thời kỳ các triều đại phong kiến theo hướng sau:
Thực hiện biết mình, biết người, hiểu thời, biết thế trong đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Các cơ quan, cán bộ trực tiếp tham mưu và đấu tranh trên mặt trận ngoại giao cần nghiên cứu, nắm chắc các quy định của luật pháp quốc tế có liên quan tới biển đảo, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về luật biển, về Hiến chương Liên hợp quốc trong những vấn đề có liên quan đến tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia. Về các điều khoản mà các quốc gia có tranh chấp với ta về biển đảo đã ký. Bởi lẽ, khi tham gia ký kết vào Công ước về luật biển, các quốc gia không buộc phải ký kết tất cả các điều khoản trong đó, mà luôn có thể bảo lưu hoặc không ký kết một số điều khoản nào đó trong Công ước này. Và khi không ký kết điều khoản nào thì quốc gia đó sẽ không chịu trách nhiệm thi hành điều khoản đó… Ở lĩnh vực này, ta cần huy động các chuyên gia giỏi trong nước và kể cả chuyên gia nước ngoài.
Đồng thời, các cơ quan, tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng cần tăng cường tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ những vấn về pháp lý cơ bản trong quá trình chuẩn bị và đấu tranh pháp lý. Khẳng định trước toàn thể nhân dân ta và nhân dân thế giới rằng Việt Nam luôn bảo vệ chủ quyền biển đảo trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế và các công ước mà Việt Nam đã ký kết. Đấu tranh làm rõ sự vi phạm luật pháp quốc tế của đối phương trước công luận quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt, đúng đắn, phù hợp đối với từng đối tượng và thời thế trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Ngày nay, khi đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc cần tuyên truyền làm cho nhân dân ta, nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới thấy rõ mục đích hòa bình của Việt Nam. Cho công luận rộng rãi thấy rằng luận điệu cho rằng Việt Nam hung hăng, gây hấn, khiêu khích là luận điệu giả dối, vu khống của Trung quốc. Vừa qua, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo các cơ quan chức năng có liên quan của ta đã khẳng định trước các tổ chức quốc tế, tại các diễn đàn đa phương và song phương với cường độ cao về mục đích giữ gìn hòa bình, tránh để xảy ra xung đột cũng như biện pháp đấu tranh hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế của Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo và đã đạt được sự nhất chí ủng hộ của nhiều quốc gia và học giả trên thế giới.
Thời gian tới đây chúng ta vẫn cần phải thường xuyên khẳng định lại chủ trương, quan điểm và giải pháp hòa bình trong quá trình đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Cần tăng cường hơn nữa các hoạt động đối ngoại của nhà nước, chính phủ và các cơ quan chức năng với các tổ chức quốc tế, các chính phủ, các cơ quan truyền thông lớn trên thế giới. Để các tổ chức quốc tế, các chính phủ và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn mục đích hòa bình của Việt Nam. Từ đó, góp phần đấu tranh bẻ gãy sự xuyên tạc của đối phương về các hành động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc của nhà nước và nhân dân ta.
Định hướng các cơ quan chức năng và nhân dân ta trong quá trình đấu tranh cần tuân thủ luật pháp và những chuẩn mực chung của đạo lý, tính nhân văn, nhân đạo quốc tế. Làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ tính chính nghĩa và hợp pháp trong quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Đồng thời phải thu thập và cung cấp đầy đủ các bằng chứng trước công luận trong nước, công luận nước đối phương và công luận thế giới về sự bất chấp đạo lý, vô nhân đạo của đối phương, với các tư liệu hình ảnh, âm thanh, vật chứng, nhân chứng cụ thể, điển hình. Như vừa qua chúng ta đã thu thập và cung cấp cho truyền thông và các tổ chức quốc tế một cách kịp thời về các hành động đâm và tầu thuyền, phun vòi rồng vào các tàu chấp pháp của ta và đặc biệt là vụ việc một tàu cá của Trung Quốc đã đâm chìm tàu cá, rồi bỏ mặc ngư dân ta ngoi ngóp giữa biển khơi, đối diện với nguy cơ kiệt sức và cái chết không tìm được xác…
Kết hợp giữa củng cố sức mạnh nội tại với chính sách ngoại giao linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Trước diễn biến nghiêm trọng của việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam cần tăng cường củng cố sự ổn định về kinh tế xã hội, sự đồng thuận và tin tưởng vào quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc của Đảng và Nhà nước và toàn dân, toàn quân ta. Phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tăng cường thể hiện quan điểm và hành động đấu tranh phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền của toàn thể dân tộc cho thế giới và đối phương thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thấy được lịch sử hàng ngàn năm anh dũng chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù xâm lược hùng mạnh và tàn bạo nhất trong lịch sử thế giới.
Nhắc nhở những bài học lịch sử thất bại nhục nhã của các kẻ thù xâm lược Việt Nam cho những kẻ tham lam bành trướng lãnh thổ “ôn cố tri tân”, vì lịch sử luôn lặp lại. Và “đừng làm cho người những gì mà mình không muốn người làm cho mình” như lời Khổng Tử đã căn dặn người dân, đất nước của ông. Họ đã từng đau khổ, tủi nhục và căm thù - hay ít nhất cũng là “không muốn” - bị các nước đế quốc xâm lược, chà đạp họ, hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, và của phát xít Nhật trong Chiến tranh thế giới 2. Lẽ nào bây giờ họ đã quên nhanh đến vậy? Để đi đóng thế vai của những kẻ mà họ đã từng căm thù. Hoạt động đối ngoại thu hút được sự đồng tình, ủng hộ của thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta cũng sẽ góp phần làm tăng thêm niềm tin, ý chí của toàn dân tộc trong những thời khắc “giông tố” của lịch sử dân tộc này.
Huy động tiềm lực của toàn dân, tập hợp lực lượng cả nước trong đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Để huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần tăng cường tuyên truyền về tính chính nghĩa, hợp đạo lý và phù hợp với những chuẩn mực chung trong quan hệ quốc tế hiện đại như Hiến chương Liên hiệp quốc, Công ước về Luật Biển... Khơi dậy truyền thống bất khuất của dân tộc, quyết tâm giữ gìn chân lý sống của dân tộc và thể diện của quốc gia dân tộc cũng như mỗi người dân Việt Nam trước chủ quyền lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng mà cha ông đã có công khai phá và gìn giữ hàng trăm năm nay, đang bị kẻ thù xâm lấn, chiếm đoạt.
Phát động những cuộc vận động tìm hiểu về biển đảo Tổ quốc. Tuyên dương những cán bộ, chiến sỹ và ngư dân ta đã anh dũng đấu tranh với kẻ thù xâm lấn hung bạo. Huy động toàn thể hệ thống chính trị, các cơ quan truyền thông, các nhà khoa học, giới văn nghệ sỹ cùng với toàn thể đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài đấu tranh với hành động sai trái của Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Vận động chính phủ các nước, nhân dân tiến bộ, văn minh, yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới cùng đấu tranh phản đối hành động sai trái, bất chấp luật pháp quốc tế, “phản bội các hiệp ước quốc tế” mà họ đã ký kết và chính sách “việc đã rồi” của Trung Quốc. Làm cho công luận thế giới thấy rằng cần có tiếng nói và hành động bảo vệ quyền lợi chính đáng của Việt Nam, đồng thời là bảo vệ công lý quốc tế, bảo vệ những giá trị văn minh, những chuẩn mực đạo lý chung của nhân loại./.
Vũ Hải Thanh - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
[1] Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2006, tr.75.
[2] Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, tập 1, tr.217-218.
[3] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 1, tr.222.
[4] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 1, tr.222.
[5] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 1, tr.306.
[6] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 1, tr.308.
[7] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.275.
[8] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.317.
[9] Nguyễn Thế Long, Bang giao Đại Việt (thời Tây Sơn), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005, tr.14.