Trong
quan hệ quốc tế, các nước vừa và nhỏ thường có chính sách cân bằng quan
hệ với các nước lớn bằng cách tham gia các liên minh đối lập hoặc hợp
tác với đối tác mạnh hơn trong cạnh tranh quyền lực quốc tế. Tuy nhiên,
điều này không hẳn là đúng ở Nam Á khi hầu hết các quốc gia nhỏ duy trì
sự tự chủ chiến lược trong cân bằng với các nước lớn. Khi cạnh tranh
giữa Trung Quốc và Ấn Độ trở thành một phần của cục diện Nam Á, các quốc
gia nhỏ trong khu vực bắt đầu sử dụng “đòn bẩy” chính sách của riêng
mình. Theo đó, các quốc gia Nam Á đã tận dụng sự nhượng bộ và nguồn lực
từ cả Trung Quốc và Ấn Độ mà không cần liên kết chính thức hoặc không
chính thức với một trong hai quốc gia. Điều này được thể hiện qua chiến
lược “phòng bị nước đôi”, chính sách “phù thịnh”, chính sách “cân bằng”
và chính sách “chọn bên” mà các quốc gia Nam Á này đang triển khai để
phản ứng với cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ trong khu vực.
Điều
đặc biệt là mặc dù có sự khác biệt về mục tiêu trong cạnh tranh chiến
lược nhưng cả Trung Quốc và Ấn Độ đều coi Nam Á là khu vực quan trọng
trong chính sách đối ngoại của mình. Đối với Ấn Độ, Nam Á là khu vực ưu
tiên chính trị hàng đầu, là cầu nối để Ấn Độ trở thành một trụ cột trong
trật tự tự do và rộng mở ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Còn
đối với Trung Quốc, Nam Á là khu vực quan trọng trong chiến lược chuyển
đổi trật tự an ninh và chính trị Á - Âu, đồng thời được coi là “bàn
đạp” cho mục tiêu trở thành cường quốc hàng đầu châu Á của Trung Quốc.
Thông qua Sáng kiến Vành đai, Con đường (BRI), Trung Quốc mong muốn đạt
được các mục tiêu kinh tế - nền tảng cho việc đạt được các mục tiêu
chính trị của quốc gia này ở Nam Á, từng bước mở rộng ảnh hưởng ra toàn
lục địa Á - Âu. Do đó, đối với Trung Quốc, Nam Á không chỉ là địa bàn
cạnh tranh chiến lược với Ấn Độ, mà còn là “sân chơi” để phục vụ cho
chiến lược trở thành cường quốc số một tại khu vực châu Á của Trung
Quốc. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia Nam Á đều tìm cách tối đa hóa
lợi ích kinh tế và chính trị khi cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ gia
tăng ở trong khu vực(1). Hiện nay, không chỉ Maldives và Sri
Lanka, mà cả Bangladesh và Nepal, các đối tác truyền thống của Ấn Độ
cũng bắt đầu trạng thái “cân bằng động” giữa hai cường quốc châu Á. Do
sự khác biệt về lợi ích, nên các quốc gia Nam Á có phản ứng và xu thế
chiến lược khác nhau đối với cạnh tranh Trung Quốc - Ấn Độ trong khu
vực.
CHIẾN LƯỢC "PHÒNG BỊ NƯỚC ĐÔI" (HEDGING)
“Phòng
bị nước đôi” là theo đuổi đồng thời nhiều chính sách khác nhau, thậm
chí đối nghịch nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa thỏa hiệp, vừa
phòng bị... để duy trì mối quan hệ ổn định với nước lớn, khai thác được
những lợi ích và mặt tích cực trong quan hệ với các nước lớn và đề phòng
rủi ro chiến lược từ nước lớn. Hiện nay, trong bối
cảnh Ấn Độ và Trung Quốc đang gia tăng cạnh tranh tại Nam Á, một số quốc
gia trong khu vực theo đuổi chính sách “phòng bị nước đôi” nhằm bảo đảm
lợi ích quốc gia của mình, mà vẫn giữ mối quan hệ hòa bình, ổn định với
cả Ấn Độ và Trung Quốc. Bên cạnh đó, chiến lược này cũng chứa đựng yếu
tố “phòng bị” (đề phòng, chuẩn bị) đối với các rủi ro có thể xảy ra khi
các quốc gia nhỏ tham gia ứng xử với các nước lớn. Chiến lược “phòng bị
nước đôi” của một số quốc gia Nam Á được thể hiện:
Thứ nhất,
vừa hợp tác, vừa thỏa hiệp. Điều này thể hiện ở việc các quốc gia Nam Á
duy trì trạng thái “im lặng để hưởng lợi”, tiếp nhận hoặc ủng hộ các
chiến lược, chương trình hợp tác đầu tư, kinh tế của cả Ấn Độ và Trung
Quốc trong khu vực; khẳng định ảnh hưởng, cam kết chính trị của Ấn Độ và
tiếp nhận các sáng kiến đầu tư xuyên biên giới của Trung Quốc; hợp tác
trực tiếp hoặc gián tiếp với Trung Quốc thông qua hợp tác kinh tế, ký
kết các văn bản chính trị. Xu hướng này chủ yếu diễn ra ở các nước nhỏ và tầm trung, như Nepal, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives… Theo
đó, các quốc gia này xem Ấn Độ là chủ thể có sức ảnh hưởng văn hóa,
lịch sử và chính trị số một trong khu vực. Đồng thời, nhìn nhận Trung
Quốc là động lực tăng trưởng kinh tế của khu vực, cải thiện kết cấu hạ
tầng, thương mại và đầu tư giúp đưa Nam Á thành một mạng lưới sản xuất
lớn ở châu Á. Mặt khác, dưới góc độ sức mạnh kinh tế, quốc phòng,
hiện nay và trong tương lai gần, Ấn Độ vẫn là quốc gia có ảnh hưởng lớn
nhất ở Nam Á, các quốc gia nhỏ và tầm trung trong khu vực ít nhiều vẫn
sẽ phụ thuộc vào Ấn Độ. Mặc dù sự mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ mang lại
nhiều cơ hội cho Nam Á, nhưng cũng tạo ra “sự quan ngại” cho các quốc
gia trong khu vực. Do đó, cạnh tranh Trung Quốc - Ấn Độ ở khu vực này
cũng tạo cơ hội cho các nước này đưa ra các tính toán chiến lược nhằm
phát huy tối đa lợi ích quốc gia của mình. Ngoài ra, với tư cách trung
tâm của khu vực, Ấn Độ vẫn là ưu tiên số một trong các chương trình nghị
sự về kinh tế và an ninh của các nước nhỏ và tầm trung ở Nam Á. Tuy
nhiên, với tiềm lực về kinh tế và các nỗ lực gia tăng sức mạnh quốc
phòng của Trung Quốc ở khu vực cũng khiến các quốc gia đang nỗ lực cân
bằng thông qua hợp tác với cả Ấn Độ và Trung Quốc.
Thứ hai,
phản ứng phòng bị nước đôi nhằm tránh bị “kẹt” và rơi vào thế “lưỡng
nan” trong quan hệ với cả Trung Quốc và Ấn Độ. Tùy vào từng quốc gia,
mức độ phản ứng này có sự khác nhau. Để “phòng bị” với cạnh tranh chiến
lược Trung Quốc - Ấn Độ, các quốc gia Nam Á chọn “hợp tác” với cả Ấn Độ
và Trung Quốc, tránh quá phụ thuộc vào một trong hai nước, “cân bằng
cứng” và “cân bằng mềm” thông qua “cân bằng bên trong” và “cân bằng bên
ngoài”. Tuy nhiên, sự quyết đoán của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương
trên các mặt trận ngoại giao, vấn đề kinh tế, môi trường… đã tạo nên tâm
lý lo ngại, cảnh giác của các quốc gia trong khu vực đối với tham vọng
chiến lược của Trung Quốc. Do vậy, nhiều nước Nam Á đang tìm cách giảm
sự phụ thuộc về kinh tế vào Trung Quốc thông qua các mối quan hệ an ninh
mạnh mẽ hơn với Ấn Độ theo những cách khác nhau. Xu hướng này vừa giúp
cân bằng quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, vừa nhằm bảo đảm lợi ích quốc
gia cho các nước trong khu vực. Hay nói cách khác, đây cũng là cơ hội
để các quốc gia Nam Á dựa vào Trung Quốc để phát triển kinh tế,
nhưng không nhất thiết đi theo “mô hình phát triển” của Trung Quốc.
Tổng thống Sri Lanka Ranil Wickremesinghe và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tại Thủ đô New Delhi, Ấn Độ. (Nguồn: newindianexpress.com)
Gần
đây, một số quốc gia Nam Á đã thể hiện rõ chiến lược phòng bị đối với
Trung Quốc, trong đó phải kể đến Sri Lanka và Maldives. Hai quốc gia này
áp dụng chiến lược phòng bị, chấp nhận vai trò “bá chủ” khu vực của Ấn
Độ và coi Trung Quốc là nhân tố đối trọng đối với Ấn Độ. Chiến lược của
Sri Lanka cho thấy các quốc gia nhỏ mặc dù ở thế bất lợi hơn so với các
cường quốc, nhưng nếu biết tận dụng lợi thế về vị trí địa lý và bối cảnh
khu vực thì vẫn có thể bảo đảm được lợi ích quốc gia. Sri Lanka duy trì
quan hệ hữu nghị với cả hai cường quốc để có được lợi thế về kinh tế,
tận dụng cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ thành cơ hội để bảo
đảm lợi ích quốc gia. Chiến lược phòng bị nhằm ngăn ngừa rủi ro được thể
hiện rõ nét trong phản ứng của Sri Lanka với Trung Quốc. Năm 2021, Sri
Lanka cấm nhập khẩu phân bón từ Trung Quốc, hủy bỏ các dự án năng lượng
của Trung Quốc ở bán đảo Jaffna và đề nghị với Ấn Độ một thỏa thuận để
phát triển khu cảng chứa dầu ở Trincomalee. Các quốc gia nhỏ hơn cũng đã
bắt đầu ngưng tiếp nhận các khoản đầu tư của Trung Quốc và tìm đến các
đối tác hỗ trợ phát triển có tính an toàn hơn, như Ấn Độ, Nhật Bản. Tuy
nhiên, được ví là một “hạt ngọc” trong “chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc
và là đối tác truyền thống lâu năm của Ấn Độ, Sri Lanka hiện vẫn tiếp
nhận hỗ trợ tài chính và đầu tư từ cả Ấn Độ và Trung Quốc. Các chính phủ
kế nhiệm của Sri Lanka khẳng định, nước này sẽ không lựa chọn đối tác
mà thay vào đó, sẵn sàng hợp tác với tất cả các quốc gia, bao gồm cả Ấn
Độ và Trung Quốc, để đạt được các mục tiêu phát triển của mình.
Ngoài
Sri Lanka, Maldives cũng duy trì chính sách cân bằng lợi ích từ cả hai
cường quốc láng giềng châu Á này. Mặc dù Maldives duy trì quan hệ chính
trị tốt đẹp với “người anh cả” Ấn Độ, nhưng quốc đảo này cũng muốn hưởng
lợi từ các khoản đầu tư kinh tế khổng lồ của Trung Quốc để phát triển
kinh tế và đó là lý do Maldives tham gia Sáng kiến BRI của Trung Quốc.
Trong khi đó, Mauritus có cách tiếp cận với cả Ấn Độ và Trung Quốc theo
cách có lợi cho quốc đảo này, chấp nhận vai trò lãnh đạo của Ấn Độ nhưng
cũng không hạn chế vai trò của Trung Quốc. Còn chiến lược của
Seychelles là tối đa hóa lợi ích thu được từ quan hệ hợp tác với cả Ấn
Độ và Trung Quốc.
CHÍNH SÁCH "PHÙ THỊNH"
“Phù
thịnh” (bandwagoning) là chính sách được nhiều nước nhỏ theo đuổi trong
quan hệ với nước lớn. Theo đó, nước nhỏ lựa chọn “thần phục” nước lớn,
chấp nhận địa vị thấp hơn của mình để có được lợi ích về an ninh, kinh
tế và mối quan hệ tương đối ổn định với nước lớn(2). Chính sách trung lập cũng là một biến thể với nhiều sự tương đồng với chính sách “phù thịnh”.
Chính sách này cũng được các quốc gia Nam Á áp dụng khi ứng phó với
những tác động từ cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ. Mục tiêu của
chính sách này là cân bằng giữa lợi ích kinh tế và an ninh trong quan
hệ với Ấn Độ và Trung Quốc. Trong bối cảnh cấu trúc an ninh khu vực Nam Á
hiện nay là “một trật tự an ninh bá quyền” với việc Ấn Độ chiếm ưu thế
gần như tuyệt đối về sức mạnh quân sự so với các nước khác; còn Trung
Quốc lại đang không ngừng gia tăng hiện diện về kinh tế, quân sự, các
nước nhỏ hơn (ngoại trừ Pakistan) đều lựa chọn theo đuổi chính sách “phù thịnh” nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và tránh bị “đe dọa” bởi các nước lớn(3). Bên
cạnh chiến lược “phòng bị nước đôi”, các quốc gia nhỏ hơn ở Nam Á như
Nepal, Maldives và Sri Lanka lựa chọn cách tiếp cận trung lập trong cạnh
tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Ấn Độ(4). Nepal, Sri Lanka và
Bangladesh, những nước có mối quan hệ truyền thống với Ấn Độ, gần đây
đều có xu hướng nghiêng về Trung Quốc. Bất chấp sự phản đối của Ấn Độ,
các quốc gia Nam Á, ngoại trừ Bhutan, đều đã tham gia BRI của Trung
Quốc. Có thể thấy, mặc dù theo đuổi các chiến lược khác nhau nhưng các
quốc gia này đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa sự độc lập và cơ hội phát
triển của đất nước.
Maldives
có nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào ngành công nghiệp du lịch -
với tỷ trọng chiếm khoảng 1/4 GDP. Sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với
nền kinh tế quốc đảo này không chỉ thể hiện trong lĩnh vực đầu tư kết
cấu hạ tầng, mà còn ở việc quốc gia này chiếm tới 25 - 35% lượng khách
du lịch của Maldives. Ngoài ra, do Maldives không đủ nguồn lực để thực
hiện các dự án xây dựng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu kép là nâng cấp kết cấu
hạ tầng du lịch và thúc đẩy phát triển kinh tế, nên nguồn vốn từ Trung
Quốc ngày càng đóng một vai trò quan trọng. Các dự án kết cấu hạ tầng
quan trọng của quốc đảo này đều do các doanh nghiệp quốc doanh của Trung
Quốc đấu thầu. Tháng 9/2014, Maldives đã ký hợp đồng với Tập đoàn Xây
dựng đô thị của Bắc Kinh để xây dựng dự án trọng điểm sân bay Male, vì
vậy dòng tiền của Trung Quốc đang hiện diện đáng kể trong các tài khoản
tài chính của Maldives. Tuy nhiên, Ấn Độ từ lâu cũng là nhà đầu tư và
cung cấp viện trợ nước ngoài lớn nhất của Maldives. Chính sách của
Maldives đến nay cho thấy, Maldives đã nhất quán tuân theo việc tạo dựng
các mối quan hệ mới với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì tăng cường gắn
kết với Ấn Độ và công khai khẳng định vị trí trung tâm của Ấn Độ trong
chính sách đối ngoại. Bên cạnh thúc đẩy quan hệ kinh tế với Trung Quốc,
Maldives cũng hướng tới việc củng cố, tăng cường hợp tác quốc phòng và
an ninh với Ấn Độ.
CHÍNH SÁCH CÂN BẰNG
Chính
sách này được thể hiện rõ nét đối với trường hợp của Bangladesh. Vì mục
tiêu hòa bình, quốc gia này luôn nhấn mạnh cần có chính sách “phù hợp”
với Ấn Độ. Điều này không chỉ bắt nguồn từ vấn đề lịch sử, chính trị của
quốc gia này với Ấn Độ, mà còn bởi vị trí địa lý của Bangladesh hầu như
bị “khóa chặt” bởi Ấn Độ. Dưới thời kỳ Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi,
mối quan hệ Bangladesh - Ấn Độ đạt được nhiều thành quả nhất định. Tháng
5/2015, hai nước đạt được Thỏa thuận ranh giới trên đất liền. Tháng
6/2015, trong chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ N. Modi đến Bangladesh, có
tới 22 hiệp định song phương đã được ký kết. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn
còn một số rào cản trong quan hệ hai nước, như việc chia sẻ nước của
sông Teesta dài 414 dặm chảy qua Tây Bengal, Sikkim và Bangladesh vào
Vịnh Bengal cùng một số vấn đề khác như bạo loạn, bất ổn ở biên giới.
Quan
hệ Bangladesh - Trung Quốc được xem là mô hình điển hình của mối quan
hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia Nam Á. Trung Quốc là nguồn cung cấp
khí tài quân sự chính cho Bangladesh. Trong chuyến thăm của Chủ tịch
nước Trung Quốc Tập Cận Bình đến Bangladesh (năm 2016), quan hệ song
phương đã được nâng lên thành đối tác chiến lược hợp tác. Hiện nay,
Bangladesh đã tham gia BRI và Dự án Hành lang kinh tế (BCIM, bao gồm
Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar).
Như
vậy, cả Ấn Độ và Trung Quốc đều là các đối tác hàng đầu của Bangladesh
xét cả về khía cạnh chính trị, an ninh và kinh tế. Trong bối cảnh cạnh
tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Ấn Độ, Bangladesh đã lựa chọn “chính
sách cân bằng”(5). Điều này được thể hiện:
Thứ nhất,
để duy trì quan hệ tốt đẹp với Ấn Độ, Chính phủ Bangladesh giữ vững lập
trường trong việc bảo đảm rằng đất đai của Bangladesh không được sử
dụng cho các hoạt động của một số nhóm nổi dậy và ly khai ở vùng Đông
Bắc Ấn Độ. Ngoài ra, đối với việc Ấn Độ xem việc Trung Quốc đầu tư và
xây dựng cảng biển nước sâu gần thành phố Chittagong (Bangladesh) là một
mối đe dọa an ninh thì Bangladesh cũng tuyên bố đang có những cân nhắc.
Bangladesh đã duy trì chính sách “cân bằng” để hưởng lợi từ nguồn đầu
tư của cả Trung Quốc và Ấn Độ thông qua việc vừa tham gia BRI, vừa là
cầu nối cho Ấn Độ và Trung Quốc thông qua BCIM.
Thứ hai,
với ưu thế về kinh tế, Trung Quốc đang vượt Ấn Độ trong đầu tư vào
Bangladesh. Về số lượng, các khoản đầu tư của Trung Quốc vào Bangladesh
được cho là chỉ đứng sau các dự án mà Trung Quốc đầu tư vào Pakistan.
Đặc biệt, Chính phủ Bangladesh nhấn mạnh sẽ không bị mắc vào “bẫy nợ”
như các quốc gia Nam Á khác do quốc gia này đang quản lý tốt các khoản
đầu tư từ Trung Quốc. Vì vậy, Bangladesh tiếp tục xem các khoản đầu tư
của Trung Quốc là nguồn lực để phát triển kinh tế. Cho đến nay,
Bangladesh đã thành công trong việc “xử lý” tốt mối quan hệ với cả Ấn Độ
và Trung Quốc bằng cách hợp tác với Ấn Độ nhiều hơn trong các vấn đề an
ninh và tận dụng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc thông qua các dự án
kết cấu hạ tầng cùng các khoản đầu tư khác.
CHÍNH SÁCH "CHỌN BÊN"
Chính
sách này được thể hiện rõ qua trường hợp của Buhtan và Pakistan. Buhtan
là trường hợp khác biệt đối với cạnh tranh tranh chiến lược của Ấn Độ
và Trung Quốc ở Nam Á. Mặc dù một số quan chức Buhtan ví quốc gia này
đang ở trong tình trạng bị “kẹt” giữa hai người khổng lồ châu Á là Ấn Độ
và Trung Quốc, nhưng khác với chiến lược cân bằng, phù thịnh hay phòng
bị nước đôi của các quốc gia khác, Buhtan đã lựa chọn đứng hẳn về phía
Ấn Độ. Do đó, mối quan hệ bền chặt trong lịch sử giữa Ấn Độ và Bhutan
hầu như không thay đổi. Hiện nay, Bhutan không có mối quan hệ ngoại giao
với Trung Quốc (vốn đã bị cắt đứt vào năm 1959). Các giao dịch với
Trung Quốc phần lớn tiếp tục thông qua Đại sứ quán của Bhutan ở Ấn Độ.
Bhutan cũng là quốc gia duy nhất trong khu vực láng giềng Nam Á của Ấn
Độ chưa trở thành thành viên của BRI. Đối với Bhutan, quan hệ với Ấn Độ
là mối quan hệ mà không có quốc gia nào có thể thay thế được.
Thủ tướng tạm quyền Pakistan Anwaar-ul-Haq Kakar hội kiến với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân dịp tham dự Diễn đàn cấp cao Hợp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” lần thứ ba, tại Bắc Kinh, Trung Quốc. (Ảnh: Reuters)
Pakistan
là trường hợp khác biệt trong phản ứng chính sách của các quốc gia Nam Á
đối với cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ ở Nam Á khi quốc gia
này đang triển khai chính sách “chọn bên”. Quốc gia này đã lựa
chọn đứng về phía Trung Quốc để tạo “mối đe dọa hai mặt” đối với Ấn Độ.
Tuy nhiên, bên cạnh chính sách chọn bên, quốc gia này còn thực thi chính
sách cân bằng quyền lực. Đối với Pakistan, quốc
gia này luôn “chào đón” các chiến lược và duy trì mối quan hệ chính trị
- ngoại giao, kinh tế, quốc phòng nồng ấm với Trung Quốc. Bởi đối với
Pakistan, mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc đã, đang và sẽ mang lại lợi
ích lớn cho Pakistan trong quá trình phát triển, hiện đại hóa cũng như
cạnh tranh với Ấn Độ để thực hiện “Giấc mơ con hổ châu Á”. Cạnh tranh
chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ ở khu vực là cơ hội để Pakistan triển khai
chính sách cân bằng quyền lực với Ấn Độ thông qua đẩy mạnh mối quan hệ
“đối tác chiến lược mọi hoàn cảnh” với Trung Quốc. Chiến lược này được
Pakistan thực hiện thông qua việc tạo ra thế đối lập với Ấn Độ bằng việc
hình thành liên minh có sức mạnh tương đương với Trung Quốc để kiềm chế
Ấn Độ.
Có
thể thấy, trong bối cảnh Trung Quốc và Ấn Độ đang đẩy mạnh gia tăng
cạnh tranh chiến lược trong khu vực, các quốc gia ở Nam Á đã phát triển
một loại quyền lực thương lượng bất đối xứng trong thời đại toàn cầu hóa
khi hai cường quốc đang lên vừa cạnh tranh, vừa hợp tác trong các lĩnh
vực khác nhau(6). Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ hiện nay có ba
đặc trưng: 1) Quan hệ giữa các nước lớn đang trỗi dậy; 2) Quan hệ giữa
các quốc gia láng giềng; 3) Quan hệ giữa các nước đang phát triển. Cạnh
tranh là một hiện tượng phổ biến trong quan hệ quốc tế và đây lại là
cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc - một cường quốc khu vực và
Ấn Độ - trung tâm của tiểu lục địa Nam Á. Vì vậy, đối với trường hợp của
Ấn Độ và Trung Quốc ở khu vực Nam Á thì cuộc cạnh tranh chiến lược này
thường kéo dài và trong thời gian tới, thậm chí còn mở rộng cả về phạm
vi và mức độ ảnh hưởng. Kết quả của cuộc cạnh tranh này không phải là sự
triệt tiêu, loại bỏ lẫn nhau mà sẽ là một sự thừa nhận vị thế của mỗi
bên đối với đối phương mà cả hai có thể chấp nhận, đi kèm với đó là sự
phản ứng linh hoạt của các quốc gia trong khu vực để vừa có thể thúc đẩy
phát triển kinh tế, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia.
Thực
tế cho thấy, không chỉ Nam Á mà Đông Nam Á cũng đã và đang trở thành
địa bàn cạnh tranh chiến lược của Ấn Độ và Trung Quốc. Do vậy, cạnh
tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ tác động rất lớn đến an ninh và phát
triển của Việt Nam và các nước trong khu vực. Điều này đòi hỏi Việt Nam
nhận thức, nghiên cứu và đánh giá đúng bản chất của cuộc cạnh tranh
này, theo dõi sát diễn biến để chủ động tìm ra đối sách phù hợp, tận
dụng tối đa cơ hội mang lại và xử lý hiệu quả các thách thức, bảo đảm
tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trong
bối cảnh các nước nhỏ ở Nam Á thực thi các chính sách “chọn bên”, “cân
bằng quyền lực”, “phòng bị” và “phù thịnh”, Việt Nam lựa chọn chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Theo đó,
Việt Nam “không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và
lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương
Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng”. Điều này
không những giúp Việt Nam củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện với cả hai nước, mà còn phát triển mối quan hệ hợp tác về kinh tế,
thương mại với Trung Quốc, đồng thời duy trì mối quan hệ tốt đẹp về
chính trị, phát triển về quan hệ an ninh - quốc phòng với Ấn Độ.
Triển
khai nguyên tắc tự chủ chiến lược trong cạnh tranh giữa các nước lớn
nhằm bảo đảm vị thế, bản sắc và lợi ích quốc gia. Điều này giúp Việt Nam
tạo ra không gian chiến lược cho quyền tự chủ trong chính sách đối
ngoại cũng như tận dụng một số cơ hội để thúc đẩy các mục tiêu kinh tế.
Hiện nay, không chỉ các nước Nam Á, mà cả Việt Nam - quốc gia có vị trí
địa - kinh tế, địa - chính trị quan trọng - ngày càng đóng vai trò lớn
hơn trong cạnh tranh chiến lược của các nước lớn. Do đó, tận dụng vai
trò này cùng việc triển khai nguyên tắc tự chủ chiến lược trong chính
sách đối ngoại sẽ giúp Việt Nam tối đa hóa lợi ích kinh tế và chính trị
trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia
tăng.
Tận
dụng cạnh tranh giữa các nước lớn để phát triển kinh tế, tránh quá phụ
thuộc vào một đối tác. Thực tế cho thấy, trong quá trình cạnh tranh, các
nước lớn luôn chủ động đưa ra các sáng kiến, chiến lược để thu hút ảnh
hưởng, lôi kéo tập hợp lực lượng. Việt Nam cũng có thể tận dụng cơ hội
này, tranh thủ nguồn lực kinh tế của các nước lớn, phục vụ mục tiêu phát
triển đất nước, đồng thời xem đây là cơ hội để đa dạng hóa đối tác kinh
tế, tránh quá phụ thuộc vào một thị trường kinh tế./.
TS. NGUYỄN THỊ OANH - TS. TRẦN HOÀNG LONG
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
________________________________
* Bài
viết là kết quả của Đề tài cấp Bộ Cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Ấn
Độ tại khu vực Nam Á giai đoạn 2000 - 2020 và dự báo đến năm 2030 do
Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á chủ trì
(1)
Harsh V. Pant - Aditya Gowdara: As India and China Compete, Smaller
States Are Cashing (Tạm dịch: Các quốc gia nhỏ hơn đang kiếm tiền khi Ấn Độ và Trung Quốc cạnh tranh), ngày 24/1/2022, https://foreignpolicy.com/2022/01/24/india-china-competition-investment-sri-lanka-maldives/.
(2)
Xem: Kang, D. C: Getting Asia wrong: The need for new analytical
frameworks (Tạm dịch: Nhận thức sai về châu Á: Nhu cầu về các khung
phân tích mới), International Security, 4/2003, tr.57-85 và
Roy, D: Southeast Asia and China: Balancing or Bandwagoning? (Tạm
dịch: Đông Nam Á và Trung Quốc: Cân bằng hay chèo kéo?), Contemporary Southeast Asia, 2/2005, tr.305-322.
(3) Nguyễn Thị Oanh: Kiến trúc an ninh khu vực Nam Á hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 3/2020, tr.27-37.
(4)
Tapan Kumar Bose: India, China and the Neighbourhood in South Asia”(Tạm dịch: Ấn Độ, Trung Quốc và các nước láng giềng ở Nam Á), ngày
7/8/2020, https://www.theindiaforum.in/letters/india-china-and-neighbourhood-south-asia.
(5)
Iftekhar Ahmed Chowdhury: Bangladesh’s Balancing of China and India:
Navigating between Scylla and Charybdis (Tạm dịch: Cân bằng giữa Trung
Quốc và Ấn Độ của Bangladesh: Điều hướng giữa Scylla và Charybdis), ngày
19/6/2020, http://www.dhakacourier.com.bd/news/Column/Bangladesh%E2%80%99s-balancing-of-China-and-India:-Navigating-between-Scylla-and-Charybdis/2496.
(6)
Tv Paul: When balance of power meets globalization: China, India and
the small states of South Asia (Tạm dịch: Khi cân bằng quyền lực đáp
ứng toàn cầu hóa: Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia nhỏ ở Nam Á), Politics, 1/2019, tr.50-63.
(Nguồn: TC Cộng sản)