Thứ Tư, 27/11/2024
Diễn đàn
Thứ Ba, 10/5/2011 14:39'(GMT+7)

Bầu cử - một phương thức để nhân dân giao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước

 Ngày 22.5 tới, cử tri cả nước ta đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp. Nhân sự kiện dân chủ - chính trị - pháp lý trọng đại này, xin có một vài suy nghĩ bàn về bầu cử.

1. Bầu cử là một trong số những hình thức để nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước của mình, và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi, bầu cử không chỉ là biện pháp dân chủ để thành lập ra nhà nước mà còn là một phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nếu quyền bầu cử của nhân dân được thực hiện một cách dân chủ, thực chất thì bộ máy nhà nước cùng các quan chức của nó được kiện toàn một bước, là cơ hội để loại bỏ những quan chức tham nhũng, độc đoán chuyên quyền, và là phương thức để nhân dân giao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhờ giới hạn của một nhiệm kỳ xác định (5 năm) do Hiến pháp và luật quy định.

Nhận thức được vai trò to lớn của bầu cử, ngay từ khi mới ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chỉ sau ngày đọc tuyên ngôn độc lập, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã đề nghị Chính Phủ lâm thời sớm tổ chức một cuộc tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp. Người nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế cai trị, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả mọi công dân, trai, gái từ 18 tuổi đều có quyền bầu cử, ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, giống nòi” (1).

Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tổ chức một cuộc bầu cử sớm như vậy là vì Người muốn có một chính quyền chính thức của nhân dân, do chính nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước lập ra. Người nhận thức sâu sắc rằng, bầu cử là phương thức thể hiện cội nguồn của quyền lực nhà nước là ở nhân dân, bản chất dân chủ của một nhà nước là do nhân dân lập nên. Quyền uy của nhà nước có được chỉ bắt nguồn từ sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, bầu cử như là một trong những phương thức thừa nhận của nhân dân trong và ngoài nước về tính hợp pháp và chính đáng của một nhà nước. Chủ quyền nhà nước trong chế độ dân chủ và pháp quyền thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng nhiều hình thức, trong đó có hình thức thông qua người đại diện do mình bầu ra. Những người đại diện này thực hiện quyền lực nhà nước theo một nhiệm kỳ xác định. Hết nhiệm kỳ theo luật định nhân dân lại thực hiện quyền bầu cử của mình để thể hiện sự tín nhiệm trong việc trao quyền lực nhà nước của mình cho người đại diện. Do vậy, bầu cử là phương thức buộc người thắng cử phải có trách nhiệm với nhân dân bầu ra mình. Bằng bầu cử mà nhân dân có quyền bày tỏ sự tín nhiệm của mình đối với người cầm quyền. Bầu cử chính là phương thức để các công dân kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã ủy thác. Nếu người cầm quyền do mình bầu ra tỏ ra không xứng đáng, khi hết nhiệm kỳ, công dân có quyền không bầu cử họ. Như vậy, nhờ bầu cử mà quyền lực nhà nước sau một thời hạn xác định lại trở về với nhân dân. Bầu cử là một trong những cách thức buộc các quan chức nhà nước phải làm tròn nhiệm vụ và quyền hạn được nhân dân giao cho.

Với quan niệm đó, cuộc bầu cử sắp tới là một dịp để nhân dân ủy quyền, giao quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp trong bộ máy nhà nước ta. Cơ sở của chế độ bầu cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước cũng như của các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước ta là do nhân dân trao cho thông qua bầu cử. Đây chính là cơ sở để đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cũng như quan chức nhà nước trước nhân dân. Sự chịu trách nhiệm trước nhân dân chính là sự thể hiện của việc nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hình thức bầu cử. Vì vậy, cuộc bầu cử sắp tới phải thật sự trở thành ngày hội dân chủ để cho “toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc của nhà nước” (2) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một phương thức và là giải pháp để nhân dân giao quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thực chất.

2. Gắn chặt với quyền bầu cử là quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri – một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân

Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể hiện bản chất ưu việt và mang tính chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu không được sự tín nhiệm của nhân dân thì bị nhân dân bãi miễn. “Dân có quyền bầu, thì cũng có quyền bãi miễn những người phụ lòng tin của mình” (3). Vì thế quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri nước ta được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước ta. “Công dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra” (Điều 20). Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều ghi nhận: “Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai hình thức bãi miễn đại biểu. Đó là, đối với đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm.

Theo đó, đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy theo mức độ sai phạm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi miễn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc tỉnh nơi có đại biểu bị bãi miễn. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử tri ở đơn vị bầu ra đại biểu ấy bãi miễn theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Mặt trận tổ quốc cùng cấp.  Đi liền với bầu cử, nghĩ rằng sau khi thực hiện quyền, cử tri cần thường xuyên quan tâm theo dõi những người mình đã tín nhiệm bầu ra để thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu của mình.

3. Hoàn thiện pháp luật về bầu cử, ứng cử, bãi miễn ĐBQH, đại biểu HĐND

Như đã phân tích ở trên, việc công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, bãi miễn chính là các phương thức thông qua đó nhân dân lựa chọn những người mà mình sẽ giao quyền, ủy quyền hoặc thu hồi lại quyền đã giao. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong việc đổi mới cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa nhà nước và công dân. Quá trình này cần chú ý những vấn đề sau:

Mở rộng phạm vi lựa chọn của nhân dân bằng cách tăng số lượng ứng cử viên cho một đơn vị bầu cử. Thực tế cho thấy, một tỷ lệ sít sao giữa đại biểu được bầu và số ứng cử viên sẽ thu hẹp khả năng lựa chọn của nhân dân và do vậy, sẽ rất khó khăn cho việc lựa chọn được những đại biểu thật xứng đáng. Việc tăng số lượng ứng cử viên không phải chỉ mang tính chất cơ học rồi sau đó lại định hướng sự lựa chọn của cử tri bằng cách sắp xếp danh sách ứng cử viên trong đó tạo ra sự chênh lệch quá lớn giữa ứng cử viên này với ứng cử viên khác, làm cho ứng cử viên này chỉ là “quân xanh” cho các ứng cử viên khác. Cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho nhiều người đáp ứng đủ những điều kiện của ứng cử viên có thể tham gia tự ứng cử. Nên chăng một đơn vị bầu cử có ứng cử viên do Đảng cử, ứng cử viên do Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân giới thiệu và ứng cử viên tự do để dành một ghế trong Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân đối với đơn vị bầu cử đó.

Hoàn thiện các quy định về giới thiệu ứng cử viên, hiệp thương, vận động tranh cử, thông tin về các ứng cử viên… nhằm tạo điều kiện cho cử tri tích cực tham gia vào quá trình bầu cử. Các cấp ủy Đảng cần giới thiệu nhiều đảng viên ứng cử vào một chức danh để thực hiện tranh cử giữa các ứng cử viên, qua đó để nhân dân sàng lọc, lựa chọn đại biểu của mình.

Quy định và áp dụng các quy định về tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu sao cho đảm bảo sự hài hòa giữa yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu với yêu cầu về cơ cấu, thành phần đại biểu. Để đảm bảo chất lượng đại biểu, cần ưu tiên đề cao tiêu chuẩn đại biểu trước rồi mới tính đến yêu cầu bảo đảm cơ cấu, thành phần sau.

Tiếp tục cụ thể hóa các quy định liên quan đến quá trình hiệp thương bầu cử. Các khoản của Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội cần được giải thích cụ thể và rõ ràng để có cách hiểu và áp dụng thống nhất trong quá trình ứng cử, hiệp thương và bầu cử của cử tri.

Cần xác định tỷ lệ hợp lý giữa đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm. Tỷ lệ này phải dựa trên cơ sở số đại biểu chuyên trách cần có làm việc ở các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu chuyên trách ở địa phương. Để đảm bảo tính độc lập, khách quan, vô tư của các đại biểu Quốc hội, cần quy định đại biểu Quốc hội không kiêm nhiệm một số lĩnh vực hoạt động nhất định trong các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là một số chức vụ quan trọng trong các cơ quan quản lý nhà nước.

Để phát huy hơn nữa quyền của công dân trong việc trực tiếp bầu ra những người xứng đáng tham gia vào các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu mở rộng phạm vi các chức danh được thành lập bằng con đường bầu cử. Chẳng hạn, thực hiện bầu cử trực tiếp Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn…

Tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền bãi miễn của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Hiện nay, vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử chỉ được quy định ở Hiến pháp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Quy định như vậy là chưa tương xứng với tầm quan trọng của chế độ bãi miễn đại biểu dân cử. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế độ bãi miễn đại biểu cũng có ý nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng như chế độ cử tri bầu ra người đại biểu của mình. Vì vậy, thủ tục bãi miễn cũng phải tuân theo những trình tự luật định rõ ràng thì mới có khả năng thực thi trên thực tế. Do đó, cần ban hành văn bản pháp luật riêng về chế độ bãi miễn. Để làm điều đó, trước mắt thực hiện tốt chế độ công khai trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng chế độ báo cáo, thông tin, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện chế độ kê khai tài sản của cán bộ, công chức nhà nước.

Về lâu dài, cần nghiên cứu tiến tới xây dựng Luật về giám sát của nhân dân trên cơ sở rà soát, pháp điển hóa, hệ thống hóa các quy định về giám sát của nhân dân trong các văn bản như: Luật khiếu nại, tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Mặt trận tổ quốc, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Các quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở… Trong đó, các vấn đề về thẩm quyền, lĩnh vực, nội dung, hình thức, thủ tục giám sát của nhân dân cần được xác định rõ. Bên cạnh đó, cần tăng cường các biện pháp bảo đảm bí mật, bảo đảm an toàn cho chủ thể giám sát là những người dám nói lên sự thật, dũng cảm bảo vệ chân lý, để cho họ không còn phải e dè, sợ sệt khi phát hiện và tố cáo những hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước.

Gs.Ts Trần Ngọc Đường, Viện Nghiên cứu lập pháp/ Đại biểu nhân dân

_____________________________________

1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – 1995, T4, Tr 6-7.

2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – 1995, T4, tr 6-7.

3. Đỗ Mười: Báo cáo tại hội nghị Ban chấp hành TW8 Khóa VII ngày 25.1.1955.

 

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất